Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 209/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 209/2022/HS-PT NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 156/2022/TLPT-HS ngày 29 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Lê Thanh L do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 59/2022/HSST ngày 08 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang.

-Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thanh L, sinh năm 1970 tại Long An; Nơi cư trú: ấp Ô, xã B, thị xã T, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Chạy xe ôm; Trình độ văn hoá: Không đi học; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn T (đã mất) và bà Mai Thị N (đã mất); Vợ: Nguyễn Thị Ngọc D, sinh năm 1975; Con 02 người; Tiền án: không.

- Tiền sự: Ngày 08/3/2021 bị cáo bị Ủy ban nhân dân thị xã T, tỉnh Long An ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 40.000.000 đồng về hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu. Bị cáo nộp phạt xong vào ngày 04/4/2022.

- Bản án không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Thanh L, sinh ngày 01/01/1970, đăng kí thường trú ấp Ô, xã B, thị xã T, tỉnh Long An có 01 tiền sự về hành vi buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng 987 bao, chưa đóng phạt.

Khoảng 05 giờ ngày 01/11/2021, thông qua giới thiệu của một người phụ nữ tên L1 (chưa xác định được nhân thân), bị cáo L điều khiển xe mô tô gắn biển kiểm soát XXB3 – 395.XX của bị cáo L mua người không rõ nhân thân đến cửa khẩu B, tỉnh Long An gặp một đối tượng nam và một đối tượng nữ (chưa xác định được nhân thân) để mua 506 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại, gồm:

370 bao thuốc lá hiệu Jet, 116 bao thuốc lá hiệu Hero và 20 bao thuốc lá hiệu 555 với tổng số tiền 8.245.800 đồng. Sau khi mua, bị cáo L cất giấu số thuốc lá trên vào cốp xe và can nhựa màu nâu để trên baga xe rồi điều khiển xe về nhà. Khoảng 11 giờ cùng ngày, bị cáo L điều khiển xe mô tô có biển số XXB3- 395.XX chở 506 bao thuốc lá điếu nhập lậu trên tỉnh lộ 8XX đến thành phố P tìm chỗ bán kiếm lời. Đến khoảng 13 giờ 10 phút cùng ngày xe của bị cáo L chạy đến đoạn ấp Z, xã M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang thì bị Công an thị xã C chặn dừng kiểm tra phát hiện bị cáo L chở 506 bao thuốc lá điếu nhập lậu nên lập biên bản và thu giữ số thuốc lá trên.

Vật chứng trong vụ án thu giữ gồm:

- 506 (năm trăm lẻ sáu) bao thuốc lá điếu (370 bao hiệu Jet, 116 bao hiệu Hero, 20 bao hiệu 555);

- 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát XXB3 – 395.XX, màu đỏ đen, nhãn hiệu Honda;

- 01 (một) can nhựa màu nâu;

- 01 (một) bao nylon màu trắng;

- 02 (hai) bao nylon màu đen.

Công văn số 166/CV-2021 HHTLVN ngày 08/12/2021 của Hiệp hội thuốc lá Việt Nam kết luận 506 bao thuốc lá điếu có các nhãn hiệu: Jet (370 bao), 555 (20 bao) và Hero (116 bao) do cơ quan Cảnh sát điều tra cung cấp là thuốc lá điếu nhập lậu.

Kết luận giám định số 79/KTHS (Đ2) ngày 17/01/2022 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang đối với xe mô tô gắn biển kiểm soát XXB3 – 395.XX của Lê Thanh L như sau:

- Số khung trước giám định: Đục xóa.

Số khung sau giám định: RLxxx…x (x là kí hiệu kí tự chữ số bị đục xóa, không đọc được chữ, số) - Số máy trước giám định: đục xóa.

Số máy sau giám định: số máy nguyên thủy bị đục xóa không đọc được chữ, số. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2022/HSST ngày 08 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thanh L phạm tội “Buôn bán hàng cấm” Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 190; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thanh L 01(một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

Ngoài ra trong bản án còn quyết định về phần xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

* Ngày 19 tháng 7 năm 2022, bị cáo Lê Thanh L có đơn kháng cáo với nội dung: Xin được hưởng án treo hoặc xử phạt tiền.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình đúng như bản án sơ thẩm đã tuyên. Và có ý kiến giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tiền Giang tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm. Hành vi phạm tội của bị cáo Lê Thanh L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại e khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự. Do đó Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm” là có căn cứ đúng người, đúng tội, Tòa cấp sơ thẩm đã xem xét tính chất nguy hiểm và hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để quyết định hình phạt 01 năm tù là phù hợp với quy định của pháp luật. Tại cấp phúc thẩm bị cáo không bổ sung tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo. Viện kiểm sát đề nghị giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã quy kết. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ, tài liệu thu được trong quá trình điều tra thể hiện: Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 01/11/2021, bị cáo Lê Thanh L đã có hành vi điều khiển xe mô tô gắn biển số XXB3-395.XX trên tỉnh lộ 8XX, chở theo 506 bao thuốc lá điếu nhập lậu mang đi bán, khi đến đoạn ấp Z, xã M, thị xã C, tỉnh Tiền Giang thì bị Công an thị xã C phát hiện lập biên bản, bị cáo L có tiền sự về hành vi buôn bán hàng cấm. Do đó, có đủ căn cứ kết luận bị cáo Lê Thanh L phạm tội “Buôn bán hàng cấm” tội phạm và hình phạt được quy định quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.

[2] Xét thấy, hành vi nêu trên của bị cáo Lê Thanh L là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự quản lý kinh tế mà cụ thể là trật tự quản lý việc sản xuất, buôn bán hàng hóa trong phạm vi lãnh thổ nước ta. Bản thân bị cáo là người đã thành niên, nhận thức rõ được hành vi buôn bán hàng cấm thuốc lá điếu nhập lậu là hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Thể hiện thái độ xem thường pháp luật, hành vi của bị cáo còn làm ảnh hưởng đến nền kinh tế xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc nhằm răn đe giáo dục bị cáo thành người có ích và phòng ngừa chung cho xã hội.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi buôn bán hàng cấm, nay lại tiếp tục thực hiện, điều này đã thể hiện bị cáo xem thường pháp luật, không tích cực sửa chữa lỗi lầm, ăn năn hối cải. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm đối với bị cáo. Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét đến tính chất và mức độ nguy hiểm đối với xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thật thà khai báo nên cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo là phù hợp. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo không có cung cấp tình tiết giảm nhẹ nào mới để Hội đồng xét xử xem xét. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Xét lời đề nghị của Viện kiểm sát là phù hợp với quy định của pháp luật, với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã phát sinh hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên, Căn cứ điểm a khoản 1 điều 355; điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.

QUYẾT ĐỊNH

1. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Thanh L.

Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 59/2022/HSST ngày 08 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Tiền Giang đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thanh L phạm tội “Buôn bán hàng cấm” Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 190; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thanh L 01(một) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi chấp hành án.

2. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm .

3. Các phần khác của quyết định án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 209/2022/HS-PT

Số hiệu:209/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về