Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 19/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H - TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 19/2022/HS-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Trong các ngày 22 và 23 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 17/2022/TLST-HS ngày 05 háng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 76/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Lâm Thị Bích H, sinh ngày 01/7/1969; Nơi sinh: Kiên Giang; Nơi cư trú: Số H đường T, khu phố M, phường P, thành phố H, tỉnh Kiên Giang; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 12/12; Họ và tên cha: Lâm Văn B; Họ và tên mẹ: Trần Thị Minh N; Anh chị em ruột: có 10 người, lớn nhất sinh năm 1959, nhỏ nhất sinh năm 1983; Họ và tên chồng: Nguyễn Công T; Con có 1 người, sinh năm 2006. Tiền án: Ngày 08/7/2015, Tòa án nhân dân thị xã H tuyên phạt bị cáo 25.000.000 đồng về tội “”Tàng trữ, buôn bán hàng cấm” (đã được xóa án tích). Tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú theo Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 77/2022/LCCT- TA ngày 05/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang. Bị cáo có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Công T, sinh năm 1970.

Địa chỉ: Số H đường T, khu phố M, phường P, thành phố H, tỉnh Kiên Giang. (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào ngày 11/3/2022, Đoàn kiểm tra của Đội Quản lý thị trường số 03 thuộc chi cục Quản lý thị trường tỉnh Kiên Giang, kiểm tra hộ kinh doanh tạp hóa của Lâm Thị Bích H tại địa chỉ số H đường T, khu phố M, phường P, thành phố H, tỉnh Kiên Giang, phát hiện có 1.510 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại (Gồm 410 bao nhãn hiệu ESSE, 410 bao nhãn hiệu HERO, 130 bao nhãn hiệu JET, 560 bao nhãn hiệu 555) đang cất giấu trong nhà. Đội Quản lý thị trường đã lập biên bản vi phạm hành chính, tạm giữ tang vật vi phạm và chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H để xử lý theo thẩm quyền.

Quá trình điều tra, bị cáo khai nhận do muốn kiếm lợi nhuận trong việc kinh doanh buôn bán nên từ ngày 25/02/2022 đến ngày 11/3/2022 đã mua thuốc lá điếu nhập lậu rẻ hơn giá thị trường sau đó bán lại cho khách hàng kiếm lời. Bị cáo đã mua thuốc lá điếu nhập lậu từ nhiều người phụ nữ dân tộc Khmer (không xác định được họ tên, địa chỉ cụ thể) số lượng từ 100 đến 150 bao mỗi ngày và cất giấu ở một số nơi trong nhà như dưới chân cầu thang, khu vực nhà tắm. Khi có khách đến hỏi mua thì bị cáo bán lẽ với số lượng từ 04 đến 05 bao trong một ngày, mỗi bao thu lợi từ 1.000 đồng đến 2.000 đồng tùy theo nhãn hiệu khác nhau. Bị cáo không xác được thu lợi nhuận từ việc bán thuốc lá điếu nhập lậu là bao nhiêu do đã bán cho nhiều khách hàng trong nhiều ngày khác nhau.

Vật chứng trong vụ án gồm:

1. Thuốc lá điếu nhập lậu hiệu ESSE: 410 (bốn trăm mười) bao.

2. Thuốc lá điếu nhập lậu hiệu HERO: 410 (bốn trăm mười) bao.

3. Thuốc lá điếu nhập lậu hiệu JET: 130 (một trăm ba mươi) bao.

4. Thuốc lá điếu nhập lậu hiệu 555: 560 (năm trăm sáu mươi) bao.

Vật chứng hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên, đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Tại Bản cáo trạng số 19/CT-VKSHT, ngày 04/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Kiên Giang đã truy tố bị cáo Lâm Thị Bích H về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lâm Thị Bích H mức hình phạt chính là hình phạt tiền từ 110.000.000đ đến 130.000.000đ. Về vật chứng vụ án và án phí: Đề nghị HĐXX áp dụng Điều 47, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, để xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật; buộc bị cáo nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra - Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện điều hợp pháp.

[2] Tại phiên Tòa bị cáo H thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản cáo trạng đã nêu, số lượng buôn bán là 1.510 bao thuốc lá điếu nhập lậu, do đó hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.

Điều 190. Tội sản xuất, buôn bán hàng cấm 1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, nếu không thuộc trường hợp quy định tại các điều 232, 234, 244, 246, 248, 251, 253, 254, 304, 305, 306, 309 và 311 của Bộ luật này, thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Sản xuất, buôn bán thuốc bảo vệ thực vật mà Nhà nước cấm kinh doanh, cấm lưu hành, cấm sử dụng từ 50 kilôgam đến dưới 100 kilôgam hoặc từ 50 lít đến dưới 100 lít;

b) Buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu từ 1.500 bao đến dưới 3.000 bao;

..................

Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố H truy tố bị cáo Lâm Thị Bích H về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chính sách quản lý kinh tế của Nhà nước, bị cáo nhận thức được thuốc lá điếu nhập nhậu là hàng hóa Nhà nước nghiêm cấm tàng trữ, vận chuyển, buôn bán nhưng vì lợi ích cá nhân mà bất chấp pháp luật. Năm 2015 đã bị xử phạt về tội danh này đúng ra bị cáo phải từ bỏ mà chỉ buôn bán những hàng hóa mà Nhà nước cho phép kinh doanh, nhưng vì muốn có thu lời nhiều nên lại tiếp tục phạm tội, tuy đã được xóa án tích nhưng xét về nhân thân thì bị cáo có nhân thân xấu, do đó cần xử phạt bị cáo một mức hình phạt tương xứng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời có tác dụng phòng ngừa chung đối với loại tội phạm này. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi lượng hình và áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Đối với ông Nguyễn Công T là chồng bị cáo do không biết bị cáo mua gom thuốc lá điếu nhập lậu với số lượng lớn nên không có căn cứ khởi tố. Tuy nhiên, ông T có hành vi bán lẽ cho khách với số lượng từ 04 đến 05 bao thuốc lá điếu nhập lậu nên cơ quan điều tra Công an thành phố H đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP, ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.

[5] Đối với những người phụ nữ có hành vi bán thuốc lá điếu nhập lậu (theo lời khai của bị cáo), quá trình điều tra không xác định họ tên, địa chỉ cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố H tiếp tục xác minh điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý sau..

[6] Về vật chứng trong vụ án: Thuốc lá điếu nhập lậu các loại gồm hiệu ESSE: 410 (bốn trăm mười) bao; hiệu HERO: 410 (bốn trăm mười) bao; hiệu JET:

130 (một trăm ba mươi) bao; hiệu 555: 560 (năm trăm sáu mươi) bao. Là hàng hóa cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí: Buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Lâm Thị Bích H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”

Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lâm Thị Bích H bằng hình phạt tiền, với số tiền là 120.000.000đ (Một trăm hai mươi triệu đồng).

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 1.510 (Một nghìn năm trăm mười) bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại gồm hiệu ESSE: 410 (bốn trăm mười) bao; hiệu HERO: 410 (bốn trăm mười) bao; hiệu JET: 130 (một trăm ba mươi) bao; hiệu 555: 560 (năm trăm sáu mươi) bao .

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Lâm Thị Bích H phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 19/2022/HS-ST

Số hiệu:19/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về