Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 18/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN T – TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 18/2023/HS-ST NGÀY 29/06/2023 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 29 tháng 6 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân T, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 13/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 15/2023/QĐXXST- HS ngày 12 tháng 6 năm 2023, đối với:

Bị cáo: Hồ Thị C; Sinh ngày: 01/01/1967; Nơi sinh: huyện T, tỉnh Long An; Nơi ĐKHKTT: Khu phố x, Phường y, thị xã K, tỉnh Long An; Nơi cư trú: Khu phố m, Phường b, thị xã K, tỉnh Long An; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 0/12 (không biết chữ); Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nữ; Con của ông Hồ Văn Q, sinh năm 1940 và bà Phan Thị N, sinh năm 1941; Chồng tên Nguyễn Thành P (không có đăng ký kết hôn, đã không còn chung sống với nhau khoảng 13 năm); Có 01 con chung sinh năm 1994; Tiền sự: Ngày 19/10/2022, Hồ Thị C bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Quận B, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 554/QĐ-XPHC về hành vi “Vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” với số tiền là 80.000.000 đồng, Hồ Thị C chưa đóng phạt; Tiền án: Không; Nhân thân: Ngày 16/01/2014, bị Công an Quận c, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 72/QĐ-XPHC về hành vi “Kinh doanh hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu”, với số tiền 25.000.000 đồng; Ngày 12/4/2019, bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1335/QĐ- XPVPHC về hành vi “Vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu”, với số tiền 85.000.000 đồng; Bị bắt tạm giam từ ngày 21/02/2023, đến ngày 21/3/2023 được thay đổi biện pháp ngăn chặn sang bảo lĩnh kể từ ngày 21/3/2023 đến ngày 15/5/2023. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Trần Trung H, sinh năm: 1971; Khu phố b, Phường h, thị xã K, tỉnh Long An (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

Người làm chứng:

Ông Đặng Văn T, sinh năm: 1977; Khu phố m, Phường h, thị xã K, tỉnh Long An (vắng mặt, có đơn xin vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 27/10/2022, Hồ Thị C nảy sinh ý định mua thuốc lá điếu nhập lậu đem về bán lại cho các tiệm tạp hoá để kiếm lời nên C đi bộ từ nhà tại Khu phố m, Phường b, thị xã K, tỉnh Long An đến gần cầu Hùng Vương, thuộc Phường m, thị xã K, tỉnh Long An để tìm người hỏi mua thuốc lá điếu nhập lậu. C gặp một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) gần cầu Hùng Vương nói có bán thuốc lá điếu nhập lậu nên C đặt mua 1.180 bao thuốc lá điếu nhập gồm: 470 bao nhãn hiệu MOND với giá 50.000 đồng/01 cây (10 bao), 220 bao nhãn hiệu ORIS với giá 80.000 đồng/01 cây, 490 bao nhãn hiệu CAPRI với giá 50.000 đồng/01 cây. Người đàn ông này hẹn C 03 giờ sáng ngày 28/10/2022, đến địa điểm trên để nhận thuốc lá điếu nhập lậu. Đến khoảng 03 giờ sáng cùng ngày, C một mình đi bộ từ nhà đến gần cầu Hùng Vương, thuộc Phường m, thị xã K, tỉnh Long An gặp người đàn ông đã hẹn trước đó nhận 1.180 bao thuốc lá điếu nhập lậu được đựng trong 02 bịch nylong màu đen và trả cho người đàn ông này số tiền 6.560.000 đồng. Sau khi mua thuốc lá điếu nhập lậu xong, C đứng tại địa điểm mua thuốc lá chờ đón xe ô tô khách để đem số thuốc lá điếu nhập lậu trên đến thành phố Tân An, tỉnh Long An bán lại cho các tiệm tạp hoá để kiếm lời. Đến khoảng 04 giờ sáng cùng ngày, ông Trần Trung H là tài xế điều khiển xe ô tô, loại 16 chỗ, hiệu Mercedes, biển số 51B-045.10 chở khách lưu thông đến gần cầu Hùng Vương, thuộc Phường 1, thị xã K, tỉnh Long An thì gặp Hồ Thị C đang đứng đón xe khách, H dừng xe lại để C lên xe. Khi lên xe, C mang theo 02 bịch nylong màu đen bên trong chứa 1.180 bao thuốc lá điếu nhập lậu lên xe ô tô, H không biết bên trong có chứa thuốc lá điếu nhập lậu. Khi H điều khiển xe ô tô chở khách lưu thông đến Khu phố b, thị trấn T, huyện Tân T, tỉnh Long An thì lực lượng Công an huyện Tân T dừng phương tiện để kiểm tra, phát hiện, lập biên bản vi phạm hành chính đối với Hồ Thị C và tạm giữ tang vật là 1.180 bao thuốc lá điếu nhập lậu. Qua điều tra, xác định được Hồ Thị C bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Quận B, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 554/QĐ-XPHC ngày 19/10/2022 về hành vi “Vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” với số tiền là 80.000.000 đồng. Đến ngày 28/10/2022 bị bắt quả tang hành vi mua bán thuốc lá điếu nhập lậu như trên.

Tại bản cáo trạng số: 14/CT-VKSTT, ngày 28/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân T truy tố bị cáo Hồ Thị C về tội “Buôn bán hàng cấm” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đồng thời phân tích tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi vi phạm pháp luật mà bị cáo đã gây ra; các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về tội danh: Đề nghị tuyên bố bị cáo Hồ Thị C phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

- Về hình phạt chính: Đề nghị căn cứ điểm e khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 50, Điều 35 Bộ Luật hình sự xử phạt bị cáo Hồ Thị C từ 100.000.000đ đến 120.000.000đ.

- Về vật chứng trong vụ án: Đề nghị căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự, đề nghị tịch thu tiêu hủy: 1.180 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm: 470 bao nhãn hiệu MOND, 220 bao nhãn hiệu ORIS, 490 bao nhãn hiệu CAPRI là vật chứng vụ án. Đề nghị tiếp tục tạm giữ số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) bị cáo đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân T để đảm bảo thi hành án.

Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng và luận tội của Viện kiểm sát đã nêu và không có ý kiến tranh luận.

Tại lời nói sau cùng, bị cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và xin được chấp hành hình phạt tiền do bị bệnh phải điều trị và trong thời gian bị tạm giam bị cáo đã rất hối hận về hành vi của mình, bị cáo cam kết không tiếp tục vi phạm pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều phù hợp quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng vắng mặt nhưng đã được Tòa án tiến hành tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên tòa và đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án và người làm chứng.

[3] Bị cáo Hồ Thị C khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Có đủ cơ sở xác định được: Ngày 28/10/2022, Hồ Thị C đã mua 1.180 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm 470 bao hiệu MOND, 220 bao hiệu ORIS, 490 bao hiệu CAPRI (của người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch) nhằm mục đích bán lại để kiếm lời. Trên đường C vận chuyển số thuốc trên đến thành phố Tân An để bán kiếm tiền lời thì bị bắt quả tang. Mặc dù số thuốc lá là 1.180 (Một nghìn một trăm tám mươi bao) chưa đủ định lượng là 1.500 (Một nghìn năm trăm) bao để xử lý trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự, nhưng do trước đó Hồ Thị C đã bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 554/QĐ-XPHC ngày 19/10/2022 về hành vi “Vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” với số tiền là 80.000.000 đồng, C chưa đóng phạt. Đến ngày 28/10/2022 lại tiếp tục thực hiện hành vi “Buôn bán hàng cấm” nên hành vi của C thuộc trường hợp quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ Luật hình sự:

“e) Sản xuất, buôn bán hàng hóa dưới mức quy định tại các điểm a, b, c, d và đ khoản này nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 188, 189, 191, 192, 193, 194, 195, 196 và 200 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”.

Do đó, hành vi của Hồ Thị C đã phạm tội “Buôn bán hàng cấm”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự.

Như vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân T, tỉnh Long An truy tố bị cáo Hồ Thị C với tội danh và điều luật trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, bị cáo nhận thức được việc mua bán thuốc lá điếu nhập lậu là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ quản lý kinh tế đối với hàng hóa mà nhà nước cấm lưu thông, cấm kinh doanh, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế. Do đó hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử phạt một cách thỏa đáng mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bên cạnh đó, xét thấy bị cáo không biết chữ, trình độ, nhận thức pháp luật hạn chế; bị cáo bị nhiều chứng bệnh như thoái hóa cột sống cổ, thoái hóa khớp, bệnh thần kinh ngoại biên, đau thắt ngực, đau cơ... nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét về nhân thân của bị cáo:

Bị cáo có nhân thân xấu, cụ thể như sau:

Bị cáo có 01 tiền sự: Ngày 19/10/2022, bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân Quận B, thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 554/QĐ- XPHC về hành vi “Vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu” với số tiền là 80.000.000 đồng, C chưa đóng phạt.

Ngoài ra, trước đó Hồ Thị C đã bị 02 lần xử phạt hành chính đã hết thời hiệu thi hành quyết định: Ngày 16/01/2014, bị Công an Quận c, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 72/QĐ-XPHC về hành vi “Kinh doanh hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu”, với số tiền 25.000.000 đồng; Ngày 12/4/2019, bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1335/QĐ-XPVPHC về hành vi “Vận chuyển hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu”, với số tiền 85.000.000 đồng.

Với các vi phạm nêu trên, mặc dù đã được xử phạt vi phạm hành chính nhưng Hồ Thị C vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm pháp luật tương tự, chứng tỏ bị cáo là người có ý thức xem thường pháp luật.

[7] Với tính chất và mức độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, trên cơ sở đánh giá, xem xét nhân thân của bị cáo như đã nêu trên, lẽ ra cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo để thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và cũng để giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội.

Tuy nhiên, xét thấy bị cáo đã và đang bị nhiều chứng bệnh, trong thời gian bị tạm giam cũng đã nhập viện điều trị bệnh trong thời gian dài tại Bệnh viện đa khoa Long An do bị bệnh thoái hóa cột sống cổ, thoái hóa khớp, bệnh thần kinh ngoại biên, trào ngược dạ dày thực quản, thiếu Canxi, hạ kali máu. Sau khi được thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 21/3/2023, từ khi xuất viện ngày 22/3/2023 cho đến nay, bị cáo vẫn còn đang bị nhiều chứng bệnh, đã và đang phải tiếp tục điều trị nhiều bệnh: thoái hóa cột sống cổ, thoái hóa khớp, viêm các khớp khác, đau thắt ngực, đau cơ, cao huyết áp. Đồng thời, trên cơ sở tình trạng sức khỏe của bản thân và tự xem xét trách nhiệm hình sự mà bản thân bị cáo phải chịu theo truy tố của Viện kiểm sát, các căn cứ pháp luật và mức hình phạt mà Bản cáo trạng đã viện dẫn, bị cáo có đơn đề nghị cho bị cáo được áp dụng hình phạt tiền để bị cáo được hòa nhập cộng đồng, tự cải tạo và được điều trị bệnh. Bị cáo đã đề xuất Tòa án giới thiệu cho bị cáo nộp tiền để chứng minh cho điều kiện của bị cáo có khả năng chấp hành hình phạt chính là hình phạt tiền. Ngày 22/6/2023, bị cáo đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân T số tiền là 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng). Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo mà áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền đối với bị cáo là phù hợp, thể hiện sự khoan hồng, nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện cho bị cáo được chăm sóc sức khỏe, điều trị bệnh tốt nhất và cho bị cáo cơ hội tự cải tạo bản thân để trở thành công dân tốt cho xã hội,.

[8] Từ những phân tích trên, xét lời đề nghị của Kiểm sát viên và đề nghị của bị cáo về áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo là có cơ sở pháp luật, phù hợp tình hình thực tế nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về hình phạt bổ sung: đối với tội “Buôn bán hàng cấm”, bị cáo còn có thể bị phạt tiền theo khoản 4 điều 190 BLHS. Tuy nhiên, hình phạt chính áp dụng đối với bị cáo là hình phạt tiền, đồng thời bản thân bị cáo còn phải điều trị bệnh nhiều chứng bệnh nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[10] Đối với người người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) bán thuốc lá điếu nhập lậu và giao thuốc lá điếu nhập lậu: Hồ Thị C không biết nhân thân, lai lịch của người đàn ông này. Qua điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân T không xác định được nhân thân, lai lịch của người này nên không có đủ căn cứ để điều tra, xử lý theo quy định pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở xem xét xử lý trong vụ án.

[11] Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Trung H là tài xế điều khiển xe ô tô, loại 16 chỗ, hiệu Mercedes, biển số 51B- 045.10 chở khách lưu thông đến gần cầu Hùng Vương, thuộc Phường b, thị xã K, tỉnh Long An thì gặp Hồ Thị C đang đứng đón xe khách nên H dừng xe lại để C lên xe. Khi C lên xe thì H nhìn thấy C có mang theo hai bịch nylong màu đen lên xe nhưng H không biết bên trong là thuốc lá điếu nhập lậu, C cũng không nói cho H biết bên trong 02 bịch nylong có chứa thuốc lá điếu nhập lậu. Đồng thời, số lượng thuốc lá điếu nhập lậu mà Hồ Thị C mang lên xe ô tô có số lượng 1.180 bao, dưới 1.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân T không xem xét xử lý đối với Trần Trung H là đúng pháp luật.

[12] Về vật chứng: căn cứ quy định tại Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự, xử lý vật chứng như sau:

Vật chứng thu giữ trong vụ án là 1.180 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm: 470 bao hiệu MOND, 220 bao hiệu ORIS, 490 bao hiệu CAPRI. Hiện vật chứng trên Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân T đang tạm giữ. Đây là mặt hàng nhà nước cấm mua bán nên tịch thu tiêu hủy.

[13] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm theo quy định Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hồ Thị C phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

2. Căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50, Điều 35 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Hồ Thị C số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) nộp vào Ngân sách nhà nước.

Chuyển số tiền 100.000.000đ (Một trăm triệu đồng) mà bị cáo đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân T theo biên lai thu tiền số 0001110 ngày 22/6/2023 sang thành tiền thi hành án hình sự. Bị cáo Hồ Thị C không phải nộp thêm.

3. Về xử lý vật chứng:

Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 47 Bộ luật hình sự;

Tịch thu tiêu hủy 1.180 bao thuốc lá điếu nhập lậu gồm: 470 bao hiệu MOND, 220 bao hiệu ORIS, 490 bao hiệu CAPRI.

Hiện vật chứng do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân T đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chứng số 11/QĐ-VKSTT, ngày 28/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân T và biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/4/2023.

4. Về án phí:

Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc bị cáo Hồ Thị C phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo:

Áp dụng các điều 331, 333 Bộ Luật tố tụng hình sự;

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 18/2023/HS-ST

Số hiệu:18/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Trụ - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về