TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 172/2020/HS-PT NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 07 tháng 5 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 836/2019/TLPT-HS ngày 23 tháng 12 năm 2019 đối với các bị cáo Trần Văn Quốc D (K1), Dương Mỹ H do có kháng cáo của các bị cáo, kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 54/2019/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
- Bị cáo có kháng cáo:
1. Trần Văn Quốc D (K1), sinh năm 1989 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; HKTT và chỗ ở: Số 548, khu phố P, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông Trần Văn B, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị H D, sinh năm 1964; vợ: Trần Thị Ánh N, sinh năm 1985; con: 02 con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Năm 2015 Trần Văn Quốc D bị Tòa án nhân dân huyện Đ1, tỉnh Long An, xử phạt bị cáo 03 năm tù về tội “Vận chuyển hàng cấm”, thi hành án tại trại giam T thuộc huyện T1, tỉnh Long An. Ngày 07/10/2017 Tòa án nhân dân tỉnh Long An ra Quyết định số 02/2017/QĐ-TA về việc miễn chấp hành hình phạt tù còn lại do có sự thay đổi chính sách pháp luật. Hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại số 548 KP P, thị trấn Đ, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
2. Dương Mỹ H (Muội), sinh năm 1986 tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu; HKTT và chỗ ở: 52 M, khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu; nghề nghiệp: Buôn bán; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Dương Minh N1, sinh năm 1961 và bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1959; Tiền án: Không; Tiền sự: Dương Mỹ H có một tiền sự về hành vi Buôn bán hàng cấm là thuốc lá điếu nhập lậu, bị UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số: 208/QĐ - XPVPHC ngày 26/01/2018 xử phạt 85 triệu đồng, đến nay bà H chưa nộp phạt số tiền nói trên.
Hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú tại 52 M, Khu phố L, Thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (có mặt).
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Võ Thị Đ, sinh năm 1963 (vắng mặt) Địa chỉ: Ấp H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 23 giờ ngày 22/5/2019, Trần Văn Quốc D điều khiển xe mô tô hiệu Lead, biển kiểm soát: 72K1- 31707 đi đến nhà Dương Mỹ H tại 52 M, khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giao bán số lượng 1200 bao thuốc lá hiệu Jet thì bị Phòng cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bắt quả tang (Bút lục số 29).
Quá trình điều tra, Dương Mỹ H còn giao nộp số thuốc là đang được cất giấu trong nhà gồm: 500 bao thuốc là hiệu 555; 100 bao thuốc lá hiệu Caraven;
900 bao thuốc lá hiệu Jet; 200 bao thuốc lá hiệu Esse. Số thuốc lá này Trần Văn Quốc D khai nhận là thuốc lá của D bán cho H trong 2 ngày trước đó. Cụ thể: Ngày 19/5/2019 D bán cho H 900 bao thuốc lá hiệu Jet và 200 bao thuốc Esse, ngày 21/5/2019, D bán cho H 500 bao thuốc lá hiệu 555 và 100 bao thuốc lá hiệu Caraven. Dương Mỹ H khai nhận H mua của D 1200 bao thuốc lá hiệu Jet và 500 bao thuốc lá hiệu 555 vào ngày 22/5/2019, số thuốc lá còn lại mua vào các ngày 19/5/2019 đến ngày 21/5/2019. Toàn bộ 2900 bao thuốc lá trên đều là thuốc lá do nước ngoài sản xuất. Trần Văn Quốc D và Dương Mỹ H không xuất trình được hóa đơn, chứng từ chứng minh nguồn gốc xuất xứ. Quá trình điều tra, Trần Văn Quốc D khai nhận: D có quen đối tượng tên C1 tại Bến xe An Sương, Thành phố Hồ Chí Minh (không rõ nhân thân, lai lịch), biết được C1 có buôn bán thuốc lá, D đến bến xe An Sương gặp C1 để hỏi mua thuốc lá ngoại và thỏa thuận việc giao hàng gửi qua xe khách, tiền mua hàng D gửi qua cho lái xe để C1 đến nhận. D cho C1 số điện thoại, khi có hàng sẽ có người gọi giao hàng tại vòng xoay Thành phố Bà Rịa. D và C1 thỏa thuận giá mua bán các loại thuốc như sau: Thuốc Jet giá 173.000đ/10 gói, thuốc Esse giá 119.000đ/10 gói, thuốc 555 giá 344.000đ/10 gói, thuốc Caraven giá 124.000đ/10 gói. D không có số điện thoại của người tên C1 và hiện không liên lạc được với người này. Ngoài ra Cơ quan Cảnh sát điều tra còn thu giữ số tiền 103.570.000 đồng của D, trong đó D khai nhận 50.770.000 đồng là tiền vừa nhận tiền bán thuốc lá cho bà H, 52.800.000 đồng là tiền thu nợ cho mẹ vợ của D.
Tại bản án hình sự sơ thẩm 54/2019/HS-ST ngày 19 tháng 11 năm 2019 Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Quốc D (K1), Dương Mỹ H (Muội) phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trần Văn Quốc D 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Dương Mỹ H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên xử:
2.1/ Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
+ 2.100 (hai nghìn một trăm) gói thuốc lá điếu hiệu Jet.
+ 100 (một trăm) gói thuốc lá điếu hiệu Craven do nước ngoài sản xuất.
+ 200 (hai trăm) gói thuốc lá điếu hiệu Esse do nước ngoài sản xuất.
+ 500 (năm trăm) gói thuốc lá điếu hiệu 555 do nước ngoài sản xuất.
2.2/ Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 103.570.000đ (một trăm linh ba triệu, năm trăm bảy mươi nghìn đồng).
2.3/ Trả lại cho bị cáo Trần Văn Quốc D:
+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám (đã qua sử dụng).
2.4/ Trả lại cho bị cáo H:
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone loại Se (đã qua sử dụng).
(Các vật chứng trên hiện Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số 01/BB-CTHADS ngày 02/10/2019).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí hình sự phúc thẩm và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm:
Ngày 29/11/2019 bị cáo Trần Văn Quốc D kháng cáo xin được hưởng án treo và đề nghị trả lại cho bà Võ Thị Đ 52.800.000 đồng. Bị cáo Dương Mỹ H kháng cáo xin được hưởng án treo.
Ngày 29/11/2019 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có quyết định số 686/QĐ-VKS-P1 kháng nghị một phần bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như án sơ thẩm đã nhận định, giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được hưởng án treo với lý do có nơi cư trú rõ ràng, hoàn cảnh khó khăn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Bị cáo Trần Văn Quốc D còn đề nghị trả lại số tiền 52.800.000 đồng cho bà Võ Thị Đ (mẹ vợ của bị cáo) vì đây là tiền nợ của bà Nguyễn Thị Trúc Đ1 trả cho bà Đ. Bà Đ đã nhận được giấy triệu tập của Tòa án nhưng do bị bệnh nên không tham gia phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bà Đ.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phúc thẩm vẫn giữ nguyên quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đề nghị Hội đồng xét xử sửa một phần bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng.
Phần tranh luận:
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh phát biểu quan điểm xét xử vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ xác định, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo Trần Văn Quốc D, Dương Mỹ H phạm tội “Buôn bán hàng cấm” là đúng người, đúng tội. Hình phạt mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo kháng cáo xin được hưởng án treo nhưng không có căn cứ nào mới để Hội đồng xét xử xem xét.
Về phần xử lý vật chứng: 02 chiếc điện thoại hiệu Nokia màu xám và Iphone loại SE là phương tiện các bị cáo dùng để liên lạc khi thực hiện hành vi phạm tội, do đó cần phải tịch thu sung quỹ. Đối với số tiền 52.800.000 đồng (nằm trong số tiền 103.570.000 đồng) mà cơ quan điều tra thu giữ có căn cứ xác định đây là tiền của bà Đ, không phải là tiền tiền thu lợi bất chính từ hành vi phạm tội nên cần thiết trả lại cho bà Đ.
Từ đó, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo của các bị cáo về phần hình phạt, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo D, chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, sửa một phần bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng.
Các bị cáo giữ nguyên lời trình bày như tại cấp sơ thẩm và trong đơn kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Vào lúc 23 giờ ngày 22/5/2019, Phòng cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu bắt quả tang Trần Văn Quốc D đang giao bán số lượng 1200 bao thuốc lá hiệu Jet cho Dương Mỹ H tại 52 M, khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Sau khi bị bắt quả tang, bị cáo H giao nộp tất cả số thuốc lá đang được cất giấu trong nhà. Tổng cộng Trần Văn Quốc D và Dương Mỹ H có hành vi mua 2900 bao thuốc lá điếu nhập lậu các loại.
Với hành vi như đã nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm”, theo b khoản 1 Điều 190 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội.
[2] Xét kháng cáo xin hưởng án treo của các bị cáo:
Bị cáo D là người trực tiếp liên hệ mua thuốc lá không rõ nguồn gốc lại cho H. Bị cáo H là người trực tiếp nhận mua thuốc lá từ D, sau đó bán lại cho người khác. Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước trong quản lý, sản xuất, kinh doanh ngành thuốc lá. Các bị cáo nhận thức rõ thuốc lá là loại hàng hóa do Nhà nước độc quyền quản lý, kinh doanh, sản xuất nhưng vẫn cố tình buôn bán hàng nhập lậu để thu lợi. Bản thân các bị cáo đã từng có tiền án, tiền sự liên quan đến hành vi vận chuyển hàng cấm, buôn bán hàng cấm nhưng các bị cáo không ăn năn, hối cải mà tiếp tục phạm tội với số lượng thuốc lá lớn. Do đó, cần thiết phải xử phạt các bị cáo mức hình phạt nghiêm để đủ sức răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Các bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo nhưng không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Tình tiết giảm nhẹ hình phạt mà các bị cáo nêu ra tại phiên tòa phúc thẩm đã được Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ khi lượng hình. Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xét thấy không có căn cứ để chấp nhận đơn kháng cáo xin hưởng án của các bị cáo. Quyết định của bản án sơ thẩm là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo D về phần xử lý vật chứng và quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu:
Kháng cáo của bị cáo D và quyết định kháng nghị đều cho rằng số tiền 52.800.000 đồng (trong số tiền 103.570.000 đồng) mà cơ quan điều tra thu giữ của D là của bà Võ Thị Đ, không liên quan đến hành vi phạm tội. Xét thấy, lời khai của bị cáo đều thể hiện số tiền này là tiền nợ của bà Nguyễn Thị Trúc Đ1 trả cho bà Võ Thị Đ (mẹ vợ bị cáo), phù hợp với lời khai của bà Đ, bà Đ1 tại cơ quan điều tra (BL 147-150). Do đó, có cơ sở xác định số tiền này không phải là tiền thu lợi từ hành vi phạm tội của bị cáo. Lẽ ra, Tòa án cấp sơ thẩm phải triệu tập bà Đ, bà Đ1 tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng để đảm bảo quyền lợi ích hợp pháp của đương sự.
Đối với 02 chiếc điện thoại là phương tiện các bị cáo dùng để liên lạc khi thực hiện hành vi phạm tội, căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự cần phải tịch thu sung quỹ Nhà nước.
Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận quyết định kháng nghị và kháng cáo của bị cáo D, sửa một phần bản án sơ thẩm về xử lý vật chứng.
[4] Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Không chấp nhận kháng cáo xin hưởng án treo của bị cáo Trần Văn Quốc D (K1), Dương Mỹ H (Muội).
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần Văn Quốc D (K1), chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sửa một phần bản án sơ thẩm về phần xử lý vật chứng.
Tuyên bố các bị cáo Trần Văn Quốc D (K1), Dương Mỹ H (Muội) phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Trần Văn Quốc D 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Dương Mỹ H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên xử:
2.1/ Tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau:
+ 2.100 (hai nghìn một trăm) gói thuốc lá điếu hiệu Jet.
+ 100 (một trăm) gói thuốc lá điếu hiệu Craven do nước ngoài sản xuất.
+ 200 (hai trăm) gói thuốc lá điếu hiệu Esse do nước ngoài sản xuất.
+ 500 (năm trăm) gói thuốc lá điếu hiệu 555 do nước ngoài sản xuất.
2.2/ Tịch thu sung công quỹ nhà nước số tiền 50.770.000 đồng (Năm mươi triệu, bảy trăm bảy mươi nghìn đồng).
+ 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xám (đã qua sử dụng).
+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone loại Se (đã qua sử dụng).
2.3/ Trả lại cho bà Võ Thị Đ số tiền 52.800.000 đồng (Năm mươi hai triệu, tám trăm nghìn đồng).
(Các vật chứng trên hiện Cục Thi hành án Dân sự tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số 01/BB-CTHADS ngày 02/10/2019).
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Các bị cáo Trần Văn Quốc D (K1), Dương Mỹ H (Muội), mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 172/2020/HS-PT
Số hiệu: | 172/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về