Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 118/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 118/2022/HS-PT NGÀY 20/06/2022 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 20 tháng 6 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 83/2022/TLPT-HS ngày 13 tháng 05 năm 2022, do có kháng cáo của các bị cáo Huỳnh Tuấn C và Vũ Văn T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 08 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Huỳnh Tuấn C, sinh ngày 27-7-1981 tại Tây Ninh. Nơi đăng ký thường trú: Ấp 3, xã S, huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh; chỗ ở: Ấp 5, xã ĐH, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn H (đã chết) và bà Võ Thị Ph (đã chết); bản thân có vợ tên Lý Thị Mỹ L, sinh năm 1982 (đã ly hôn), hiện đang chung sống cùng Ngô Thị Ngọc H1, có 01 con sinh năm 2003; tiền sự: Không;

Tiền án: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2000/HSST ngày 13-01-2000 của Tòa án nhân dân huyện Tân Châu, tỉnh Tây Ninh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản công dân”. Ngày 22-11-2000 chấp hành án xong hình phạt tù nhưng chưa chấp hành xong phần dân sự theo xác nhận kết quả thi hành án số 07/CCTHADS ngày 27-10-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Châu.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23-4-2021 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Vũ Văn T, sinh ngày 20-01-1993 tại Nam Định. Nơi đăng ký thường trú: Xóm 1, xã HM, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định; chỗ ở: Ấp 4, xã ĐH, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn V (đã chết) và bà Vũ Thị T, sinh năm 1969; bản thân có vợ tên Phan Thị Thúy Ng, sinh năm 1997; có 01 con sinh năm 2019; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23-4-2021 đến nay, có mặt.

- Những người tham gia tố tụng không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị, không triệu tập:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Lý Thị B, sinh năm 1975. ĐKTT: Ấp 3, xã MQ, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An.

2. Chung Cảnh S, sinh năm 1981. ĐKTT: Số 163/30 NV, phường 7, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.

3. Võ Phương H2, sinh năm 1976. ĐKTT: Ấp HT, xã H, huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.

4. Công ty TNHH Dịch vụ du lịch G Car. Địa chỉ: Số 131 đường TL 28, phường T, quận 12, thành phố Hồ Chí Minh.

Ngưi đại diện theo pháp luật: Đặng Tuấn V1 – Chức vụ: Giám đốc.

5. Ngân hàng TMCP Q Việt Nam. Địa chỉ: Tầng 1, 6, 7 Tòa nhà CornerStone, số 16 PC, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Nguyễn Minh T1, sinh năm 1983 ĐKTT: Số 6/54 ấp 1, xã B, huyện B, thành phố Hồ Chí Minh (Giấy ủy quyền ngày 01/12/2021) Địa chỉ liên hệ: Số 26 UV, phường 25, quận BT, thành phố Hồ Chí Minh.

- Người làm chứng:

1. Huỳnh Anh V1, sinh năm 1985. ĐKTT: khu phố 1, thị trấn B, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

2. Huỳnh Ngọc V2, sinh năm 1979. ĐKTT: Số 257 NT, khu phố 8, thị trấn B, huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 3-2021, Huỳnh Tuấn C đi đến khu vực xã MQ, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An và có quen với người phụ nữ tên Lý Thị B, ngụ ấp 3, xã MQ, huyện Đức Huệ. Qua nói chuyện, C biết B làm nghề mua bán thuốc lá ngoại nhập lậu. C xin số điện thoại của B là 0823916466 và lưu vào danh bạ điện thoại với tên “S”. Sau đó, C về rủ Vũ Văn T đi cùng đến Tho Mo, huyện Đức Huệ mua thuốc lá ngoại nhập lậu, rồi chở đi thành phố Cần Thơ bán kiếm lời. Mỗi chuyến, C trả tiền công cho T 1.000.000 đồng và T đồng ý.

Khoảng 19 giờ 22-4-2021, C sử dụng số thuê bao 0939083660 của C điện thoại vào số 0823916466 của B đặt mua 6.000 bao thuốc lá ngoại ngoại nhập lậu, gồm 2.400 bao hiệu Jet và 3.600 bao hiệu Hero với số tiền 95.400.000 đồng. Đến khoảng 06 giờ ngày 23-4-2021, C điều khiển xe ô tô nhãn hiệu Chevrolet Cruze, màu trắng, biển số 51G-335.72 loại 4 chỗ ngồi đến nhà trọ của T chở T đi lấy thuốc lá nhập lậu, T đồng ý lên xe. Khi C điều khiển xe chở T đến huyện Đức Huệ, C liên lạc để B chỉ đường đi đến địa điểm nhận thuốc lá ngoại là bãi đất trống gần chợ Tho Mo, huyện Đức Huệ. Khi đến nơi C lấy 94.200.000 đồng xuống xe gặp và trả tiền mua thuốc cho B, C còn nợ lại 1.200.000 đồng, T thì ngồi trên xe chờ. Sau khi trả tiền xong, C cùng với người thanh niên (không rõ lai lịch) đi cùng với bà B chất lên xe 13 bao ny lông màu xanh bên trong chứa thuốc lá ngoại, C không kiểm đếm thuốc mà điều khiển xe chở T cùng số thuốc lá ngoại đi thành phố Cần Thơ bán. Đến khoảng 8 giờ 45 phút cùng ngày, khi C chạy xe trên tuyến đường Tỉnh ĐT830, thuộc Ấp 2, xã An Thạnh, huyện Bến Lức thì lực lượng Công an huyện Bến Lức bắt quả tang cùng vật chứng 5.970 bao thuốc lá ngoại, trong đó 2.380 bao hiệu Jet và 3.590 bao hiệu Hero.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm 34/2022/HS-ST ngày 08 tháng 04 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An đã xét xử:

Tuyên bố: Các bị cáo Huỳnh Tuấn C và Vũ Văn T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 17, Điều 58, Điều 50, Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Tuấn C 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23-4-2021.

Căn cứ điểm b khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 58, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015. Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn T 08 (tám) năm tù, thời gian tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 23-4-2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên tuyên xử lý vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 19 và 20 tháng 4 năm 2022, các bị cáo C và T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

Về tố tụng: Các bị cáo C và T kháng cáo đúng thời hạn và đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, nên vụ án đủ điều kiện để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo C và T phạm tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng pháp luật và mức hình phạt đã tuyên đối với từng bị cáo là thỏa đáng. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Các bị cáo không tranh luận.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo mong được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các bị cáo Huỳnh Tuấn C và Vũ Văn T kháng cáo đúng theo quy định của pháp luật tại các Điều 331, 332 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được chấp nhận để xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo C và T khai nhận: Sáng ngày 23-4-2021, sau khi mua 5.970 bao thuốc lá ngoại nhập lậu gồm: 2.380 bao hiệu Jet và 3.590 bao hiệu Hero với số tiền 94.200.000 đồng tại huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Sau đó, C điều khiển xe ô tô hiệu Chevrolet, màu trắng, biển số 51G-335.72 chở T cùng số thuốc lá trên đi về thành phố Cần Thơ để bán kiếm lời. Khoảng 8 giờ 45 phút cùng ngày, C điều khiển xe đi trên đường Tỉnh 830, thuộc khu vực ấp 2, xã An Thạnh, huyện Bến Lức thì bị lực lượng Công an bắt quả tang. Xét, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ mà nội dung án sơ thẩm đã nêu. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm” được quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 Bộ luật Hình sự, là xét xử đúng người, đúng tội.

Xem xét tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với từng bị cáo để tuyên phạt mỗi bị cáo với mức án như trên là thỏa đáng.

[3] Các bị cáo kháng cáo giảm nhẹ hình phạt, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ mới, nên không có căn cứ xem xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa.

[4] Từ những phân tích trên, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Huỳnh Tuấn C và Vũ Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[5] Về án phí: Các bị cáo Huỳnh Tuấn C và Vũ Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo bị cáo Huỳnh Tuấn C và Vũ Văn T. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 08 tháng 04 năm 2022 của Toà án nhân dân huyện Bến Lức, tỉnh Long An.

Tuyên bố: Các bị cáo Huỳnh Tuấn C và Vũ Văn T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Áp dụng: Điểm b khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 17; Điều 58; Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Tuấn C 09 (Chín) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 23-4-2021.

Áp dụng: Điểm b khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 50 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn T 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam 23-4-2021.

Căn cứ Điều 347 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam mỗi bị cáo Huỳnh Tuấn C và Vũ Văn T 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án phúc thẩm 20-6-2022 để đảm bảo thi hành án.

2. Về án phí: Áp dụng các Điều 135 và Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sựNghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Buộc mỗi bị cáo Huỳnh Tuấn C và Vũ Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật thi hành kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

282
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 118/2022/HS-PT

Số hiệu:118/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về