TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 114/2023/HS-PT NGÀY 15/09/2023 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 15 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 105/TLPT-HS ngày 18 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo Lê Văn H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 71/2023/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh Tây Ninh.
Bị cáo có kháng cáo:
Lê Văn H, sinh năm 1970 tại tỉnh Tây Ninh; Nơi cư trú: Ấp Đông Thành, xã Tân Đông, huyện TC, tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: Buôn bán; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Lê Thắng L (đã chết) và bà Võ Thị Nem (đã chết); có vợ tên Trương Thị L; con có 03 người con, lớn nhất sinh năm 1990, nhỏ nhất sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: Không có;
Bị cáo tại ngoại. (có mặt) Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đinh Bửu L - Luật sư Công ty Luật TNHH MTV Bảo Minh L, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án như sau: Trong khoảng tháng 12-2022, bị cáo Lê Văn H đi buôn bán trái cây ở khu vực xã Cro Viên, huyện Mê Mốt, tỉnh Tbuong Khmum, Vương quốc Campuchia biết khu vực này có bán pháo nổ, nên bị cáo H nảy sinh ý định mua pháo hoa nổ về bán lại cho người khác để kiếm lời. Đến khoảng 09 giờ ngày 30- 12-2022, bị cáo H mang theo số tiền là 460.000 Riel (Tiền Campuchia tương đương 2.658.000 đồng tiền Việt Nam), điều khiển xe mô tô ba bánh biển số 60Y3-7381 chở theo vợ tên Trương Thị Lành cùng hàng hóa là trái cây, đi từ nhà thuộc ấp Đông Thành, xã Tân Đông, huyện TC, tỉnh Tây Ninh đến khu vực xã Cro Viên, huyện Mê Mốt. Tại đây, bị cáo H và Lành cùng nhau bán trái cây.
Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, bà Lành đi gom tiền của những người mua trái cây, còn bị cáo H một mình điều khiển xe mô tô ba bánh tiếp tục đi bán trái cây và đến gặp 01 người đàn ông Campuchia không rõ họ tên mua 06 hộp pháo hoa nổ, mỗi hộp có chứa 100 ống, có tổng khối lượng 18kg và 02 hộp pháo nổ có trọng lượng 02kg với tổng số tiền là 460.000 Riel tương đương 2.658.000 đồng tiền Việt Nam.
Sau khi mua được pháo, bị cáo H cất giấu trong cần xé để trên thùng xe mô tô ba bánh rồi lấy trái cây để lên trên nhằm tránh bị lực lượng chức năng phát hiện khi về Việt Nam. Sau đó, bị cáo H điều khiển xe quay lại chở bà Lành đi về và không nói cho Lành biết việc mua pháo để trên xe. Đến 17 giờ 10 phút cùng ngày, bị cáo H điều khiển xe mô tô ba bánh chở bà Lành về đến khu vực kiểm soát Cửa khẩu Kà Tum trên địa phận ấp Đông Biên, xã Tân Đông, huyện TC, tỉnh Tây Ninh thì bị lực lượng Đồn Biên phòng Kà Tum, Bộ đội Biên phòng tỉnh Tây Ninh phối hợp Chi cục H quan cửa khẩu Kà Tum kiểm tra phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.
Kết luận giám định số: 676/KL-KTHS ngày 03/01/2023, của Phân viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh:
- Mẫu ký hiệu M1: 06 khối hình hộp chữ nhật có kích thước 23cm x 23cm x 10cm, bên ngoài dán giấy nhiều màu sắc có ghi dòng chữ “BILLION TIME J” ký hiệu “KS4-10011” bên trong mỗi hộp có chứa 100 ống giấy hình trụ tròn, gửi giám định là pháo nổ (pháo hoa nổ). Khi đốt bay lên cao, nổ và phát ra ánh sáng màu. Tổng khối lượng 18kg.
- Mẫu ký hiệu M2: 02 hộp giấy kích thước 22cm x 22cm x 7cm, bên trong bọc giấy nhiều màu sắc, bên trong mỗi hộp có chứa các ống giấy hình trụ tròn màu đỏ dài 3,3cm, đường kính 0,7cm liên kết với nhau thành tràng, gửi giám định đều là pháo nổ. Khi đốt phát ra tiếng nổ liên tiếp. Tổng khối lượng là 02 kg.
Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: 01 (một) thùng giấy Carton, bên trong chứa 04 (bốn) hộp giấy màu xanh có khối lượng 12kg, trên vỏ có ghi dòng chữ BILLION TIMEJ, ký hiệu KS4-10011, bên trong mỗi hộp có chứa 100 ống giấy hình trụ tròn và 01 (một) hộp giấy màu đỏ có khối lượng là 01kg, có in dòng chữ nước ngoài, ký hiệu AK-1000, bên trong mỗi hộp có chứa các ống giấy hình trụ tròn, màu đỏ liên kết với nhau thành tràng (được niêm phong đúng quy định sau giám định, có chữ ký niêm phong của Đỗ Minh Quang – Giám định viên, Lê Đình Kiệt – Cán bộ Đồn Biên Phòng Kà Tum, có đóng mộc giáp lai của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh.
01 (một) xe mô tô ba bánh, nhãn hiệu Loncin biển số: 60Y3-7381, số máy: LX162MKRC009008, số khung: không, không có giấy chứng nhận đăng ký và không rõ nguồn gốc.
Kê biên tài sản: Bị cáo Lê Văn H không có tài sản nên Cơ quan điều tra không tiến hành kê biên.
Tại Bản án Hình sự sơ thẩm số: 71/2023/HS-ST ngày 14 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh Tây Ninh, đã xử:
Căn cứ điểm k khoản 2 Điều 190; điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự;
- Xử phạt bị cáo Lê Văn H 03 (ba) năm về tội “Buôn bán hàng cấm”, thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù Bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 26 tháng 7 năm 2023, bị cáo Lê Văn H kháng cáo với nội dung: Xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Bị cáo giữ nguyên kháng cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt. Lý do: do hoàn cảnh gia đình khó khăn và nhân dịp gần tết bị cáo mua về để sử dụng và ai mua thì bị cáo bán lại.
Luật sư trình bày lời bào chữa: Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có cha là Lê Thắng L được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất và huy hiệu 30 năm tuổi đảng, trình độ học vấn thấp, lạc hậu, thiếu hiểu biết pháp luật. Đề nghị áp dụng điểm m, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự, áp dụng án treo cho bị cáo.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh tham gia phiên tòa đề nghị: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 26-7-2023 bị cáo H có đơn kháng cáo. Qua xem xét đơn kháng cáo của bị cáo phù hợp với trình tự, thủ tục quy định tại Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Hành vi của bị cáo thể hiện: Ngày 30-12-2022, lực lượng Đồn biên phòng Kà Tum, Bộ đội Biên phòng tỉnh Tây Ninh phối hợp Chi cục H quan cửa khẩu Kà Tum kiểm tra phát hiện bắt giữ bị cáo H điều khiển xe mô tô ba bánh biển số 60Y3-7381 chở 18kg pháo hoa nổ và 02kg pháo nổ từ Campuchia về Việt Nam. Theo bị cáo khai mua về Việt Nam ai mua bị cáo bán lại. Kết luận giám định xác định hàng hoá bị bắt giữ là pháo hoa nổ và pháo nổ. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm k khoản 2 Điều 190 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo, thấy rằng: Bị cáo nhận thức rõ việc mua pháo nổ từ Campuchia về Việt Nam bán lại là Nhà nước nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện, vì mục đích động cơ tư lợi cá nhân, do đó bị cáo phạm tội với lỗi cố ý với tình tiết định khung là buôn bán qua biên giới, khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù. Cấp sơ thẩm áp dụng mức án 03 năm tù đối với bị cáo là phù hợp. Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp tài liệu có cha ruột tên Lê Thắng L được tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất và được tặng huy hiệu 30 năm tuổi Đảng là tình tiết giảm nhẹ mới quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Có căn cứ chấp nhận một phần kháng cáo giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Luật sư cho rằng bị cáo trình độ lạc hậu, đề nghị áp dụng điểm m khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và yêu cầu cho bị cáo được hưởng án treo là không có căn cứ.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[4] Án phí: Bị cáo Lê Văn H không pH chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1/. Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Lê Văn H.
Sửa bản án sơ thẩm 2/. Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.
- Căn cứ điểm k khoản 2 Điều 190; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 54 của Bộ luật Hình sự;
- Xử phạt bị cáo Lê Văn H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù, được tính từ ngày bị cáo đi chấp hành hình phạt tù.
3/. Án phí: Bị cáo Lê Văn H không pH chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 114/2023/HS-PT
Số hiệu: | 114/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về