TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM
Ngày 26 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 01/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:
Trần Thị M, sinh ngày 05/6/1966 tại Hải Phòng. Nơi cư trú: T, thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn V và bà Nguyễn Thị N (đều đã chết); có chồng là Nguyễn Đình M, có 02 con; tiền án: Không; tiền sự: Quyết định số 71 ngày 19/8/2022, Công an huyện Cát Hải xử phạt vi phạm hành chính về hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 26/9/2023; có mặt.
- Người làm chứng: Anh Nguyễn Đức A; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Trần Thị M đã bị Công an huyện Cát Hải xử phạt vi phạm hành chính về hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu theo Quyết định số 71/QĐ-XPHC ngày 19/8/2022. Hồi 17 giờ 55 phút, ngày 15/8/2023 Công an huyện Cát Hải kiểm tra hành chính cửa hàng tạp hóa Minh M, địa chỉ số 147 đường 1-4, tổ dân phố 12, thị trấn Cát B, huyện Cát Hải, Hải Phòng phát hiện Trần Thị M, sinh năm 1966 là chủ cửa hàng đang bán 10 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu ESSE CHANGE, trên cây thuốc không dán tem điện tử cho anh Nguyễn Đức A, sinh năm 1995; địa chỉ: Thôn Nhân Lễ, xã Vĩnh L, huyện Vĩnh B, Hải Phòng với giá 280.000 đồng.
Tiến hành khám xét nơi cất giấu tang vật vi phạm hành chính tại cửa hàng tạp hóa Minh M, Công an huyện C phát hiện và tạm giữ thêm 70 bao thuốc lá điếu bên ngoài có chữ “Hero king size cigarettes”; 20 bao thuốc lá điếu ESSE CHANGE; 10 báo thuốc lá ESSE CLASSIC; 08 bao thuốc lá ESSE LIGHTS; 04 bao thuốc lá RICH MOND còn nguyên vẹn các bao thuốc trên không dán tem điện tiện. Toàn bộ số thuốc lá điếu, không có hóa đơn, chứng từ về nguồn gốc xuất xứ. Công an huyện Cát Hải đã lập biên bản tạm giữ số thuốc lá nêu trên để niêm phong tiến hành giám định và số tiền 280.000 đồng.
Tại Bản kết luận giám định số 19/KL-KTHS ngày 24/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận:
- 07 (bảy) sản phẩm nhãn hiệu “Hero king size cigarettes”, vỏ màu xanh, trắng, mỗi sản phẩm đều chứa 10 bao gói sản phẩm nhỏ giống nhau, mỗi bao gói sản phẩm nhỏ có 20 điếu (ký hiệu mẫu M1) gửi giám định là Thuốc lá, loại: Hero king size cigarettes, do nước ngoài sản xuất, không đủ căn cứ xác định cụ thể do nước nào sản xuất.
- 02 (hai) sản phẩm nhẫn hiệu “ESSE CHANGE” ghi chữ bằng tiếng nước ngoài KT&G made under authority of KT&G, Korea, vỏ màu xanh, mỗi sản phẩm đều chứa 10 bao gói sản phẩm nhỏ giống nhau, mỗi bao gói sản phẩm nhỏ có 20 điếu (ký hiệu mẫu M2) gửi giám định là Thuốc lá, loại: ESSE CHANGE, do nước ngoài sản xuất, không đủ căn cứ xác định cụ thể do nước nào sản xuất.
- 01 (một) sản phẩm nhãn hiệu “ESSE CLASSIC” ghi chữ bằng tiếng nước ngoài KT&G made under authority of KT&G, Korea, vỏ màu trắng, mỗi sản phẩm đều chứa 10 bao gói sản phẩm nhỏ giống nhau, mỗi bao gói sản phẩm nhỏ có 20 điếu (ký hiệu mẫu M3) gửi giám định là Thuốc lá, loại: ESSE CLASSIC, do nước ngoài sản xuất, không đủ căn cứ xác định cụ thể do nước nào sản xuất.
- 08 (tám) bao gói sản phẩm nhỏ giống nhau, vỏ màu trắng, mỗi bao gói sản phẩm nhỏ có 20 điếu (ký hiệu mẫu M4) gửi giám định là thuốc lá, loại ESSE LIGHTS, do nước ngoài sản xuất, không đủ căn cứ xác định cụ thể do nước nào sản xuất.
- 04 (bốn) bao gói sản phẩm nhỏ giống nhau, vỏ màu đỏ, mỗi bao gói sản phẩm nhỏ có 20 điếu (ký hiệu mẫu M5) gửi giám định là Thuốc lá, loại: RICH MOND, do nước ngoài sản xuất, không đủ căn cứ xác định cụ thể do nước nào sản xuất.
Tại Công văn số 3009/SCT – QLTM ngày 14/9/2023 của Sở Công thương Hải Phòng trả lời: Sở Công thương không cấp giấy phép buôn bán sản phẩm thuốc lá cho cửa hàng tạp hóa Minh M, thị trấn C, huyện C; Giấy đăng ký kinh doanh hộ gia đình số 02L8000083, đăng ký thay đổi lần thứ 2, ngày 26/5/2009 của Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải cấp cho bà Trần Thị M là chủ cơ sở.
Tại bản Kết luận về giá tài sản trong tố tụng hình sự số 15 ngày 20/11/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Cát Hải kết luận: 07 cây thuốc lá điếu (mỗi cây chứa 10 bao, mỗi bao đều chứa 20 điếu) mang nhãn hiệu “Hero king size cigarettes” không dán tem nhập khẩu trị giá 1.484.000đ; 02 cây thuốc lá điếu(mỗi cây chứa 10 bao, mỗi bao đều chứa 20 điếu) mang nhãn hiệu “ESSE CHANGE” không dán tem nhập khẩu trị giá 646.000đ; 01 cây thuốc lá điếu (mỗi cây chứa 10 bao, mỗi bao đều chứa 20 điếu) mang nhãn hiệu “ESSE CLASSIC” không dán tem nhập khẩu trị giá 263.000đ; 08 bao thuốc lá điếu (mỗi bao chứa 20 điếu) mang nhãn hiệu “ESSE LIGHTS” không dán tem nhập khẩu trị giá 213.000đ; 04 bao thuốc lá điếu (mỗi bao đều chứa 20 điếu) mang nhãn hiệu “RICH MOND” không dán tem nhập khẩu trị giá 120.000đ. Tổng giá trị tài sản 2.726.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra Trần Thị M khai nhận: Trần Thị M là chủ cửa hàng tạp hóa Minh M có giấy phép kinh doanh hộ gia đình do Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải cấp đăng ký thay đổi lần thứ 2. Bản thân M đã bị Công an huyện Cát Hải xử phạt vi phạm hành chính về hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu. Ngày 07/8/2023 Mận đang ở cửa hàng tạp hóa thì có một người đàn ông khoảng 30 tuổi (không rõ lai lịch, địa chỉ) đi xe máy đến chào mua hàng thuốc lá ngoại, không có tem nhập khẩu để bán, do ham lợi nhuận M đã mua 70 bao thuốc lá Hero; 10 bao thuốc lá ESSE CLASSIC; 20 bao thuốc lá ESSE CHANGE; 10 bao thuốc lá ESSE LIGHTS và 10 bao thuốc lá RICH MOND với tổng số tiền là 2.160.000 đồng. Số thuốc lá mua được Mận để tại cửa hàng tạp hóa Minh M mục đích bán cho khách kiếm lời, trong số thuốc lá trên chồng M lấy 06 bao loại RICH MOND, con trai lấy 02 bao loại ESSE LIGHTS đã hút hết. Ngày 15/8/2023 Nguyễn Đức A là khách hàng đến cửa hàng mua 01 cây thuốc lá nhãn hiệu ESSE CHANGE với giá 280.000đ, khi Mận đang bán thuốc lá cho anh Nguyễn Đức A thì bị Công an huyện Cát Hải kiểm tra, phát hiện và lập biên bản tạm giữ số thuốc lá như đã nêu trên. Toàn bộ số thuốc lá điếu, Mận mua không có hóa đơn, chứng từ về nguồn gốc xuất xứ.
Bản Cáo trạng số 03/CT-VKS ngày 03/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo Trần Thị Mận về tội Buôn bán hàng cấm theo điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên và thừa nhận nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố là đúng.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên trình bày quan điểm luận tội: Mặc dù đã bị xử phạt hành chính về hành vi buôn bán thuốc lá điếu nhập lậu nhưng do hám lời bị cáo tiếp tục có hành vi buôn bán thuốc lá nhập lậu, không rõ nguồn gốc, xuất xứ là mặt hàng Nhà nước cấm buôn bán và giữ nguyên nội dung truy tố bị cáo Trần Thị M về tội “Buôn bán hàng cấm” theo điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự, đồng thời phân tích tính chất, mức độ của hành vi, nhân thân, hoàn cảnh phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm e khoản 1 Điều 190; Điều 35; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trần Thị M từ 100.000.000 (một trăm triệu) đồng đến 120.000.000 (một trăm hai mươi triệu) triệu đồng. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy số thuốc lá thu giữ của bị cáo còn lại sau khi giám định; trả lại số tiền 280.000 đồng cho anh Nguyễn Đức Anh.
Tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến tranh luận, đồng thời thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát. Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cát Hải, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tội danh và khung hình phạt: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai, người làm chứng, kết luận giám định, vật chứng thu được và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 17 giờ 55 phút ngày 15/8/2023, tại của hàng tạp hóa Minh M, địa chỉ: Số 147 đường 1-4, , thị trấn C, huyện C, thành phố Hải Phòng bị cáo Trần Thị M có hành vi buôn bán thuốc lá nhập lậu, không rõ nguồn gốc, xuất xứ nhằm mục đích kiếm lời. Mặc dù số lượng thuốc lá nhập lậu bị cáo buôn bán dưới mức quy định của Bộ luật hình sự nhưng trước đó bị cáo đã bị xử phạt hành chính về hành vi này, chưa được xóa nên đủ căn cứ xác định bị cáo đã phạm tội buôn bán hàng cấm, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm e khoản 1 Điều 190 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng trên là có cơ sở và đúng với quy định của pháp luật.
[3] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến trật tự quản lý kinh tế của nhà nước về hàng cấm buôn bán, gây mất trật tự, an toàn xã hội.
[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đều thành khẩn khai báo, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[6] Về quyết định mức hình phạt: Với nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội các bị cáo nên xem xét áp dụng Điều 35 Bộ luật Hình sự xử bị cáo hình phạt chính là phạt tiền là phù hợp với tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm, phù hợp với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.
[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 190 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, bị cáo đã bị áp dụng hình phạt chính là phạt tiền, vì vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[8] Về xử lý vật chứng: Số thuốc lá hoàn lại sau khi giám định được niêm phong số 19HH/PC09 ngày 24/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng là vật nhà nước cấm buôn bán nên cần tịch thu tiêu hủy. Số tiền 280.000 (hai trăm tám mươi nghìn) đồng do anh Nguyễn Đức A dùng mua thuốc, xét anh Nguyễn Đức A không biết số thuốc lá trên là mặt hàng cấm buôn bán nên trả lại cho anh Nguyễn Đức A.
[9] Về các vấn đề khác: Đối với người đàn ông bán thuốc lá điếu nhập lậu cho bị cáo do không xác minh được lai lịch địa chỉ nên Cơ quan điều tra Công an huyện Cát Hải không xử lý là có căn cứ.
[10] Về án phí hình sự: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 190; Điều 35; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trần Thị M 100.000.000 (một trăm triệu) đồng về tội "Buôn bán hàng cấm".
Căn cứ Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy đối với số thuốc lá hoàn lại sau giám định theo niêm phong số 19HH/PC09 ngày 24/8/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng; trả lại số tiền 280.000 (hai trăm tám mươi nghìn) đồng cho anh Nguyễn Đức Anh.
(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 04/01/2024 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Cát Hải và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C và Biên lai thu tiền số 0005651ngày 04/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C).
Về án phí hình sự: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án: Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội buôn bán hàng cấm số 04/2024/HS-ST
Số hiệu: | 04/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cát Hải - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về