Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cưỡng đoạt tài sản số 78/2021/HSPT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 78/2021/HSPT NGÀY 12/07/2021 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT VÀ CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 12 tháng 7 năm 2021, tại Hội trường Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự thụ lý số 58/2020/TLPT- HS, ngày 06 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo Phan Văn G do có kháng cáo của bị cáo Phan Văn G đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HSST ngày 29/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

- Bị cáo kháng cáo: Phan Văn G (Tên gọi khác: Không), sinh ngày: 14/7/1989, tại xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm B, xã P, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: V Nam; con ông Phan Văn C, sinh năm 1954 và bà Lê Thị N, sinh năm 1955; có vợ là Trần Thị Hồng N, sinh năm 1994 và 01 đứa con sinh năm 2015; về nhân thân: Ngày 02/11/2016 bị Công an huyện H xử phạt hành chính 1.000.000đ về hành vi gây rối trật tự công cộng và ngày 10/6/2019 bị Công an huyện H xử phạt hành chính 2.000.000đ về hành vi xâm hại sức khỏe người khác (đã chấp hành xong); tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến ngày 29/12/2020 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh; hiện tại ngoại. Có mặt.

- Bị cáo không kháng cáo:

+ Phan Huỳnh Đ (Tên gọi khác: Không), sinh ngày: 01/8/1993, tại xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm P, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh

+ Nguyễn Văn H (Tên gọi khác: Không), sinh ngày: 02/5/1993, tại xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nơi cư trú: Xóm P, xã H, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh Vụ án còn có bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Năm 2017 Phan Văn G mở hiệu cầm đồ A thuê ki ốt tại tổ dân phố M, thị trấn H để kinh doanh dịch vụ cầm đồ và cho vay tiền. G thuê Phan Huỳnh Đ và Nguyễn Văn H làm nhân viên cho mình. Tháng 12/2018, anh Lê Ưu V, sinh năm 1992, trú tại tổ dân phố M7, thị trấn H, huyện H vay của G số tiền 15.000.000đ, lãi suất 9%/tháng, đã trả được 05 tháng tiền lãi từ tháng 12/2018 đến tháng 4/2019 với số tiền 6.750.000đ. Từ tháng 5/2019 Lê Ưu V không có tiền trả nên G nhiều lần cho người tìm V đòi nợ. Khoảng 18 giờ ngày 29/9/2020, Phan Văn G phát hiện V tại sân bóng chuyền SQ ở tổ dân phố M, thị trấn H, G gọi điện cho Phan Huỳnh Đ nói “V đang ở sân bóng chuyền SQ đến đó giữ lại, cậu đến sau”, rồi lái xe đi mua thuốc lá. Khoảng 5 phút sau, Đ2 điều khiển xe mô tô hiệu Exciter màu xanh, BKS 12L1-1XX.YY đến sân bóng chuyền SQ thấy V đang ở trong sân bóng, sợ V bỏ chạy nên Đ2 gọi điện cho Nguyễn Văn H nói “Ra sân bóng chuyền SQ chở V về tiệm cầm đồ”, H2 đồng ý. H2 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu đen, không đeo biển kiểm soát đến dừng trước cổng đi bộ vào gặp Đ2. Đ2 vừa chỉ vị trí của V cho Nguyễn Văn H thì lúc này Phan Văn G điều khiển xe ô tô Mazda3 biển kiểm soát 38A-XXX.YY đến. Đ2 cùng Nguyễn Văn H đi vào gặp V, yêu cầu V ra nói chuyện thì G cũng đi vào. G đi tới dùng tay khoác qua vai V bảo đi ra ngoài nói chuyện, đồng thời tát 01 cái vào đầu V và nói “Mi trốn được lâu hè”, rồi G yêu cầu V ngồi lên xe mô tô của Nguyễn Văn H để chở về tiệm cầm đồ. G điều khiển xe ô tô đi trước, H2 điều khiển xe mô tô chở V đi giữa và Đ2 điều khiển xe mô tô đi sau. Khi về đến cửa hiệu cầm đồ A thì có Nguyễn Phi H2 đang ngồi chơi điện tử trên máy tính. Nguyễn Văn H vào đứng chắn ở lối ra cửa sau. G nói V ngồi vào ở ghế sofa đối diện và hỏi V “Tiền anh mi lấy đi mô”, V nói “Lâu rồi em không nhớ nữa”, G bức xúc nên đóng cửa trước lại, rồi nói “Lấy cho anh cái gậy”. Phan Huỳnh Đ đi ra phía sau tiệm cầm đồ lấy một chiếc gậy ba khúc bằng kim loại vào đưa cho G, nhưng sợ đánh gãy tay nên G nói “Lấy gậy khác”. Nguyễn Phi H2 đi ra ngoài lấy một chiếc gậy nhựa cứng vào đưa cho Nguyễn Văn H, H2 cầm gậy đưa cho G, rồi G hỏi V “Tiền tau mi định khi mô trả” thì V trả lời “Em xin anh, cho em về kiếm tiền trả nợ” thì G đánh 2-3 phát vào người V. Bị đánh, V xin G “Cho em về em trả nợ cho anh” nhưng G không đồng ý, bắt V nằm úp xuống ghế sofa rồi tiếp tục dùng gậy nhựa cứng đánh liên tiếp vào mông, vào vai V vừa chửi. Đánh một lúc G hỏi Đ2 “Thằng V nợ mấy tiền”, Đ2 cầm máy điện thoại tính rồi nói “V nợ gốc mười lăm triệu và tiền lãi khoảng 500 ngày là tổng khoảng ba mươi tám triệu”. G hỏi V “Dừ mi nợ tau mấy”, V trả lời “Nợ gốc mười lăm triệu” thì G dùng gậy đánh liên tiếp vào mông V và nói “Tau cho mi nói lại”, V nói “Em nghe anh Đ2 nói mười lăm triệu chớ em có biết mô”, G lại đánh liên tiếp vào mông nên V nói “Em nợ gốc anh ba tám triệu”. G hỏi V “Tiền nợ tau dừ mi định a răng”, V nói “Em xin trả dần tháng hai triệu” thì bị G đánh tiếp, V nói “Dạ tháng em trả anh năm triệu” thì bị G đánh tiếp. V tiếp tục xin G “Cho em về kiếm tiền, trong một năm em trả nợ cho anh”. G lại đánh V, V xin “Cho em đến tết trả nợ cho anh”, G lại đánh V. Bị đánh, V lại xin “Cho em một tháng trả nợ cho anh” nhưng G không đồng ý và đánh V. V lại nói “Cho em xin một tuần em trả nợ cho anh” thì G ngừng đánh và nói “Tau đập mi năm gậy mi thụt từ một năm xuống tết, tau đập năm gậy mi thụt từ tết xuống một tháng, tau đập năm gậy mi thụt từ một tháng xuống một tuần, giờ tau đập mi tiếp có lẽ mai mốt mi trả cho tau hè?”. Thời điểm này thì Phan Huỳnh Đ đi ra ngoài lấy xe mô tô đi về trước. Khi Đ2 vừa về thì G ngồi dậy và nói với V “Dừ mi viết giấy nợ bốn mươi triệu cho tau”, rồi nói Nguyễn Văn H lấy giấy đưa cho V. G hướng dẫn cho V viết giấy nợ bốn mươi triệu đồng. Khi V viết xong G yêu cầu V ký tên rồi cầm tay V điểm chỉ vào mục người vay. Sau khi V viết xong giấy vay tiền, đưa cho G rồi V xin G về kiếm tiền trả nợ nhưng G không đồng ý. G nói Nguyễn Văn H đưa điện thoại cho V để V gọi điện cho gia đình xác nhận việc vay tiền. V gọi cho ông Lê Hữu Chức nói “Con đang ở đầu quán anh G cha lại đây với con được không”, rồi đưa điện thoại cho G nói chuyện với ông Chức. Sau đó G mở cửa thả cho V ra về lúc này khoảng 19h45’. Anh V đi bộ đến sân bóng SQ rồi nhờ anh Đặng Thiết Giáp đưa đi điều trị tại Bệnh viện Đa khoa thành phố Hà Tĩnh từ ngày 29/9/2020 đến ngày 07/10/2020 thì ra viện.

Kết luận giám định pháp y xác định Lê Ưu V bị tổn hại sức khỏe của là 8%.

Ngày 01/10/2020, anh Lê Ưu V có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Ngày 02/10/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện H ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phan Văn G, Phan Huỳnh Đ, Nguyễn Phi H2 và Nguyễn Văn H về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự 2015. Tuy nhiên, ngày 15/10/2020, bị hại anh Lê Ưu V có đơn rút yêu cầu khởi tố vụ án nên ngày 16/10/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện H đã căn cứ khoản 2 Điều 155, điểm a khoản 1 Điều 230 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án, đình chỉ bị can đối với Phan Văn G, Phan Huỳnh Đ, Nguyễn Phi H2 và Nguyễn Văn H về tội Cố ý gây thương tích theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Vật chứng, tài liệu thu giữ, xử lý:

01 chiếc gậy hình trụ tròn được làm bằng nhựa cứng màu xanh, có 04 sọc màu đỏ xung quanh, dài 78cm, đường kính 2,5cm, độ dày của thành ống 0,4cm;

01 gậy ba khúc bằng kim loại màu đen dài 63cm (Hiện Chi cục THADS huyện H đang bảo quản chở xử lý).

01 thẻ đảng viên, 01 sổ bảo hiểm xã hội, 01 bằng tốt nghiệp THPT mang tên Hoàng Thị L; 01 giấy vay tiền mang tên Hoàng Thị L ghi ngày 26/9/2018; 01 mẫu giấy vay tiền A4 còn để trống nội dung; 01 quyển sổ màu đen, kích thước 22x16cm, bên ngoài có chữ màu vàng BUSINESS KB-240 (Hiện chuyển theo hồ sơ vụ án).

01 xe mô tô hiệu Exciter, màu xanh đen bạc, BKS 12L1-1XX.YY đã trả lại cho anh Hoàng Văn T; 01 xe ô tô Mazda3 màu trắng, BKS 38A-XXX.YY đã trả lại cho chị Trần Thị Hồng N; 01 máy tính xách tay, nhãn hiệu Acer màu đen đã trả lại cho Nguyễn Phi H2.

Đối với chiếc xe mô tô Exciter màu đen, không có BKS do Nguyễn Văn H sử dụng chở Lê Ưu V từ sân bóng SQ về cửa hiệu cầm đồ A. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội H2 đưa xe mô tô về để tại nhà ở xã H nhưng cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thu giữ được.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại anh Lê Ưu V không có yêu cầu về bồi thường thiệt hại và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Tại Bản án sơ thẩm số 16/2021/HSST ngày 29/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh:

Căn cứ khoản 1 Điều 157, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 170, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phan Văn G;

Căn cứ khoản 1 Điều 157; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Phan Huỳnh Đ;

Căn cứ khoản 1 Điều 157, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 170, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn H;

Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Khoản 1, 3 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố các bị cáo Phan Văn G, Phan Huỳnh Đ, Nguyễn Văn H phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”; bị cáo Phan Văn G, Nguyễn Văn H phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

- Xử phạt bị cáo Phan Văn G 06 tháng tù về tội Bắt giữ người pháp luật và 09 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt 02 tội buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến ngày 29/12/2020.

- Xử phạt bị cáo Phan Huỳnh Đ 06 tháng tù về tội Bắt giữ người pháp luật.

Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến ngày 29/12/2020.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 05 tháng tù về tội Bắt giữ người pháp luật và 06 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt 02 tội buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 11 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến ngày 29/12/2020.

Bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.

Ngày 12/4/2021 bị cáo Phan Văn G kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo và thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo đúng như nội dung của bản án sơ thẩm.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phan Văn G giữ nguyên bản án sơ thẩm số 16/2021/HSST ngày 29/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Phan Văn G thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với bản án sơ thẩm, các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, đủ cơ sở để xác định: Do nhiều lần đòi nợ nhưng chưa trả, khoảng 18 giờ ngày 29/9/2020 khi phát hiện thấy Lê Ưu V tại sân bóng SQ thuộc tổ dân phố M, thị trấn H, Phan Văn G nảy sinh ý định bắt giữ V đưa về hiệu cầm đồ của mình để đòi nợ. Phan Văn G gọi điện cho Phan Huỳnh Đ đến trước để canh giữ. Đ2 đến trước thấy V nhưng không gọi ra ngay, để có thêm người phòng V bỏ chạy, Đ2 gọi cho Nguyễn Văn H đến cùng tham gia. Tại sân bóng SQ, Phan Văn G tát vào đầu V, quàng tay phải qua vai V đi ra cổng và yêu cầu V ngồi lên xe mô tô của Nguyễn Văn H để chở về cửa hiệu cầm đồ của G. G đi xe ô tô phía trước, Nguyễn Văn H chở V đi giữa và Đ2 đi xe mô tô áp sát phía sau nhằm để canh chừng. Tại cửa hiệu cầm đồ A, Phan Huỳnh Đ và Nguyễn Văn H đứng chắn tại lối ra cửa sau ngăn chặn V bỏ chạy. G đi vào hỏi nợ V không được nên đi ra đóng kín cửa chính nhằm không cho V ra ngoài. Lê Ưu V bị các bị cáo giữ tại kiot đánh đập, đòi nợ trong khoảng thời gian từ 18h30 đến 19h30 cùng ngày. Đồng thời, tại cửa hiệu cầm đồ A, Phan Văn G có hành vi đánh đập, ép buộc V viết giấy nợ 40.000.000đ là hoàn toàn trái với ý chí của Lê Ưu V. Nguyễn Văn H biết rõ việc đưa gậy cho G là để đánh đập V đòi nợ; đưa giấy cho V là để bắt ép V viết giấy vay nợ G; đưa điện thoại cho V là để gọi cho người thân xác nhận số tiền nợ, nhưng đã thống nhất làm theo sự chỉ đạo của G. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cưỡng đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[2] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo Phan Văn G, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến một trong các quyền cơ bản của công dân đó là quyền tự do thân thể; đồng thời xâm phạm đến thân thể, tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây bất bình trong quần chúng nhân dân, ảnh hưởng đến an ninh trật tự trên địa bàn. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

Tuy nhiên, xét bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, được hưởng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Ngoài ra, bị cáo Phan Văn G có thời gian tham gia quân đội, có cha là người có công với cách mạng nên được xem xét thêm tình tiết giảm nhẹ khác quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm giấy xác nhận tham gia hoạt động từ thiện của Hội chữ thập đỏ huyện H và nhóm Thiện Tâm H. Từ những tình tiết nêu trên, Hội đồng xét xử nhận thấy có căn cứ để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật.

[3] Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án. Kháng cáo của bị cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Phan Văn G sửa bản án hình sự sơ thẩm số 16/2021/HSST ngày 29/3/2021 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Căn cứ khoản 1 Điều 157, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 170, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54; điểm a khoản 1 Điều 55 Bộ luật Hình sự:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Văn G phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt:

Xử phạt bị cáo Phan Văn G 06 tháng tù về tội Bắt, giữ người trái pháp luật và 06 tháng tù về tội Cưỡng đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt 02 tội buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 12 tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án. Bị cáo được trừ thời gian tạm giam từ ngày 02/10/2020 đến ngày 29/12/2020.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Phan Văn G không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cưỡng đoạt tài sản số 78/2021/HSPT

Số hiệu:78/2021/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về