Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cưỡng đoạt tài sản số 77/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 77/2022/HS-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT VÀ CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN 

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số  64/2022/HSST ngày 07/9/2022,  theo  quyết  định  đưa  vụ án ra xét xử số 80/2022/QĐXXST - HS ngày 17/9/2022 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn H; sinh năm 2002; tại xã H, huyện H, tỉnh T; trú tại: Thôn K, xã H, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn V và bà Nguyễn Thị T; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không,  Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/5/2022 đến ngày 03/6/2022 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hà Trung cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

2. Mai Tấn T; sinh năm 1995; tại xã Y, huyện H, tỉnh T; trú tại: Thôn Đ, xã Y, huyện H, tỉnh T; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mai Tấn H và bà Nguyễn Thị H; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không.

Tạm giữ, tạm giam: Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/5/2022 đến ngày 03/6/2022 chuyển tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Hà Trung cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên toà.

Bị hại: Anh Nguyễn Khắc D, sinh năm 2003, nơi cư trú: số nhà 159 Q,  phường N, thành phố T, tỉnh T, có mặt.

Đại diện theo ủy quyền: Ông Vũ Hoàng T, sinh năm 1959.

Địa chỉ: số nhà 17, L, phố M, phường Đ, thành phố T, tỉnh T; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Mai Tấn T: Bà Hoàng Thị Th - Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh T.

Địa chỉ: số 32, đại lộ L, phường Đ, thành phố T, tỉnh T, có mặt.

Người làm chứng: - Ông Hoàng Văn H; sinh năm: 1961; nơi cư trú: thôn B, xã H, huyện H, tỉnh T, vắng mặt.

- Ông Hoàng Văn M; sinh năm: 1961; nơi cư trú: thôn B, xã H, huyện H, tỉnh  T, vắng mặt.

- Ông Hoàng Văn T; sinh năm: 1960; nơi cư trú: thôn B, xã H, huyện H, tỉnh  T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN 

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 17 giờ ngày 19 tháng 5 năm 2022, Nguyễn Văn H điều khiển xe máy nhãn hiệu Zuzuki, màu đỏ đen biển kiểm soát 36B8 - 546.13 chở Mai Tấn T đi trên Quốc lộ 1A thuộc tiểu khu 6, thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa, nhìn thấy anh Nguyễn Khắc D, sinh năm 2003, trú tại số nhà 159, Q, phường N, thành phố T, tỉnh T điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA, loại RSX, biển kiểm soát 36B3-197.55 đi từ Hà Nội về thành phố Thanh Hóa với tốc độ nhanh nên T bảo H điều khiển xe đuổi theo, khi vượt qua đầu xe của anh D, T nói với anh D: “Em ơi, dừng lại anh bảo này”, nhưng anh D không dừng lại. H tiếp tục đuổi theo, khi chạy đến cầu vượt 217 thì H vượt qua xe anh D, khi đó T và H chửi anh D: “Mi không dừng, tao đánh mi” và ép xe anh D vào lề đường nhưng anh D vẫn không dừng xe và tiếp tục chạy đến cây xăng Đại Lộc rồi chạy vào khu vực bãi đỗ xe của cây xăng. Tại cây xăng có ông Hoàng Văn T, sinh năm 1960 trú tại thôn B, xã H, huyện H, tỉnh T đang bán xăng, anh D nói với ông T: “Bác ơi, có hai thanh niên lùa cháu đoạn dài, chửi bới cháu”, ông T nói: “Cứ đi vào trong đây đi, né bọn nó đi, tý bọn nó đi rồi đi” rồi tiếp tục bán hàng. Lúc này, H và T đi xe máy chạy thẳng vào chỗ anh D đang ngồi, rồi cả hai xuống xe, ép anh D lên xe đi theo nhưng anh D không đồng ý thì H nói: “Tao là Công an xã đây, mi giấu cái chi trong người mà mi không chịu ra đây”, rồi T cũng đe dọa: “Mi không ra là bọn tau bắt mi lôi lên đây”. Lúc này, anh D gửi xe máy tại cây xăng Đại Lộc rồi đi cùng H và T. H cầm lái, ép anh D ngồi giữa, T ngồi phía sau, khống chế không để anh D bỏ chạy. Trên đường đi, H và T đe dọa anh D rồi chở đến điểm đón xe buýt gần Ủy ban nhân dân thị trấn Hà Trung, H lôi anh D xuống xe và tiếp tục đe dọa, T bắt anh D ngồi xuống rồi dùng chân phải kẹp chân trái của anh D, dùng tay phải kẹp cổ anh D đe dọa: “Bây giờ mi có chạy cũng không chạy được đâu”, rồi T nói với H: “Hay là lấy còng số 8 để còng nó lại”, để đe dọa anh D. H tiếp tục dọa:

“Thế bây giờ tao lấy còng số 8 để còng lại nhé, đã bao giờ bị còng số 8 chưa?”. Bị đe dọa nên anh D xin bỏ qua và nói còn 30.000đ (Ba mươi nghìn đồng) trong ví đưa cho T và H. T không đồng ý và hỏi anh D có tiền trong tài khoản không? anh D nói có tiền, nhưng là tiền đóng học. Lúc này, H và T đe dọa anh D, T nói: “Anh không biết, bây giờ mày đã vi phạm, một là vào đồn và tý nữa có người ra làm việc với mày, nếu ông ấy làm việc thì sẽ đánh mày”. Sợ bị đánh nên anh D xin nộp  500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) để được bỏ qua nhưng H và T không đồng ý. Biết anh D còn tiền, H đe dọa: “Thôi để tao vào lấy còng số 8”, còn T túm tay anh D dọa đưa anh D vào Công an thị trấn. Lúc này, anh D nói: “Thôi 1 triệu anh nhá” thì T và H đồng ý. Lúc này, T và H ép anh D lên xe máy, H điều khiển xe máy, anh D ngồi giữa, T ngồi sau rồi chạy đến cây ATM của ngân hàng AGRIBANK. Khi đến cây ATM thì H đứng ngoài, còn T và anh D đi vào rút tiền, anh D rút được  1.000.000đ (Một triệu đồng) đưa cho T, sau khi cầm tiền T đưa lại 100.000đ (Một trăm nghìn đồng) cho anh D rồi chở anh D về cây xăng Đại Lộc. Sau đó, T và H lấy số tiền 900.000 đồng tiêu xài cá nhân. Đến ngày 25/5/2022, Mai Tấn T và Nguyễn Văn H đến Cơ quan điều tra Công an huyện Hà Trung đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) áo chống nắng màu đen, chất liệu bằng vải sợi, dài 77cm (cả phần mũ), rộng 47cm, tay áo dài 67cm, đã qua sử dụng; 02 (hai) chiếc dép màu đen, đã qua sử dụng, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 28cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 11cm của Nguyễn Văn H; 01 (một) áo cộc tay màu xanh, đã qua sử dụng, dài 62cm, rộng 42cm, 02 (hai) chiếc dép màu đen, đã qua sử dụng, trên bề mặt 02 chiếc dép có dòng chữ “NIKE” màu xanh, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 27cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 11cm, 01 (một) quần đùi màu đen, đã qua sử dụng, dài 46cm, cạp quần rộng 27 cm, phần ống quần rộng 23cm của Mai Tấn T; 01 (một) xe máy nhãn hiệu SUZUKI, loại RAIDER, màu đen đỏ, biển kiểm soát: 36B8-546.13, số khung: RLSDL11ANLV140661, số máy: CGA1540673.

Tại biên bản ghi lời khai ngày 25/5/2022, anh Nguyễn Khắc D khai anh không bị đánh đập gì nên cơ quan Cảnh sát điều tra không tiến hành giám định sức khỏe đối với anh D.

Cáo trạng số 80/CT-VKS ngày 07/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn H và Mai Tấn T về các tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” quy định tại khoản 1, Điều 157 và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 170 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, các bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng đã truy tố. Người bào chữa cho bị cáo T  không có ý kiến gì chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ   nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng khoản 1, Điều 157; khoản 1, Điều  170; Điều 17; Điều 38; Điều 55; Điều 58; điểm b,s, khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Điều 280; Điều 288; Điều 590 Bộ luật dân sự đối với cả hai bị cáo. Xử phạt Mai Tấn T từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội  từ 30 tháng tù đến 36 tháng tù. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và từ 18 tháng tù đến 21 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”, tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội  từ 27 tháng tù  đến 33 tháng tù. Về bồi thường dân sự: Các bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt của anh D là 900.000 đồng; buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường cho bị hại tiền tổn thất tinh thần là 08 tháng lương cơ sở, về chi phí đi lại và tiền thuê dịch vụ không xem xét; về án phí: bị cáo H phải chịu theo quy định của pháp luật, miễn toàn bộ án phí sơ thẩm cho bị cáo T.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các  tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được  tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Quá trình điều tra, truy tố các bị cáo không có khiếu nại về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng. Các hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng với trình tự, thủ tục, thẩm quyền và hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2]. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo ở giai đoạn điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và vật chứng thu giữ được, đủ cơ sở khẳng định: khoảng 17 giờ, ngày 19 tháng 5 năm 2022, tại cây xăng Đại Lộc thuộc huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa, Nguyễn Văn H và Mai Tấn T đã có hành vi đe dọa, bắt anh Nguyễn Khắc D lên xe môtô biển kiểm soát 36B8 - 546.13 đưa về thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa và cưỡng đoạt số tiền 1.000.000 đồng của anh D. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung truy tố các bị cáo Nguyễn Văn H và Mai Tấn T về các tội “Bắt giữ người trái pháp luật” quy định tại khoản 1, Điều 157 và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1, Điều 170 Bộ luật hình sự.

[3]. Xét tính chất, vai trò và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm  hình sự của các bị cáo trong vụ án thấy rằng:

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền tự do của con người và quyền sở hữu tài sản của người khác, làm mất trật tự trị an trên địa bàn huyện. Vì vậy, phải cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian để cái tạo, giáo dục các bị cáo đồng thời để răn đe phòng ngừa chung.

Đây là vụ án mang tính đồng phạm giản đơn, không có sự phân công nhiệm vụ cụ thể, trong đó Mai Tấn T vừa là người khởi xướng vừa là người thực hành tích cực hơn Nguyễn Văn H nên bị cáo T  giữ vai trò chính và phải chịu hình phạt cao hơn so với bị cáo H.

Tuy nhiên, sau khi phạm tội các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi phạm tội, các bị cáo đến Công an đầu thú, bị hại đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây được coi là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo khoản 2, Điều 51 Bộ luật hình sự, cần áp dụng các tình tiết này để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị  cáo.

[4]. Về bồi thường thiệt hại: Số tiền 900.000 đồng các bị cáo chiếm đoạt của anh D, quá trình điều tra, các bị cáo đã tác động đến gia đình bồi thường toàn bộ cho anh D, nên miễn xét. Tại phiên tòa, anh D yêu cầu các bị cáo phải bồi thường thiệt hại gồm: Bồi thường thiệt hại do tổn thất tinh thần là 10 tháng lương cơ sở  =  14.900.000 đồng; tiền chi phí đi lại từ Hà Nội về Thanh Hóa và ngược lại trong quá trình tham gia tố tụng 5 lần x 550.000đ/1 lần = 2.750.000 đồng; tiền thuê dịch vụ pháp lý = 27.000.000 đồng. Tổng số tiền yêu cầu bồi thường = 43.650.000 đồng. Các bị cáo chỉ đồng ý bồi thường tiền tổn thất tinh thần và tiền chi phí đi lại, không đồng ý bồi thường tiền thuê dịch vụ pháp lý.

Xét thấy, bị hại bị tổn thất về tinh thần là có cơ sở, tiền chi phí đi lại là chi phí thực tế, nên được chấp nhận. Đối với số tiền thuê dịch vụ pháp lý, do bị hại là người có đủ năng lực hành vi, việc thuê dịch vụ pháp lý không phải là chi phí hợp lý nên không được chấp nhận.

[5]. Về vật chứng: 01 (một) áo chống nắng màu đen, chất liệu bằng vải sợi, dài  77cm (cả phần mũ), rộng 47cm, tay áo dài 67cm, đã qua sử dụng; 02 (hai) chiếc dép màu đen, đã qua sử dụng, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 28cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 11cm của Nguyễn Văn H; 01 (một) áo cộc tay màu xanh, đã qua sử dụng, dài 62cm, rộng 42cm, 02 (hai) chiếc dép màu đen, đã qua sử dụng, trên bề mặt 02 chiếc dép có dòng chữ “NIKE” màu xanh, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 27cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 11cm, 01 (một) quần đùi màu đen, đã qua sử dụng, dài 46cm, cạp quần rộng 27 cm, phần ống quần rộng  23cm của Mai Tấn T, là tài sản hợp pháp của các bị cáo, các bị cáo không yêu cầu được nhận lại và do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với chiếc xe xe máy nhãn hiệu SUZUKI, loại RAIDER, màu đen đỏ, biển  kiểm soát: 36B8-546.13, là tài sản hợp pháp của chị Nguyễn Thị H nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung đã trả lại chiếc xe cho chị H là đúng quy định.

[6]. Về án phí: Bị cáo H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Bị cáo  T được miễn án phí do thuộc hộ cận nghèo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH 

Căn cứ khoản 1, Điều 157; khoản 1, Điều 170; Điều 17; Điều 38; Điều 55; Điều 58; điểm b, s, khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự; Điều 280; Điều  288; Điều 590 Bộ luật dân sự đối với cả hai bị cáo.

1. Về tội danh: Các bị cáo Nguyễn Văn H và Mai Tấn T phạm các tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và “Cưỡng đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Mai Tấn T 15 (Mười lăm) tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 36 (Ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 25/5/2022.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 12 (Mười hai) tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” và 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả hai tội là 33 (Ba mươi ba) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 25/5/2022.

3. Về bồi thường:

Buộc các bị cáo nguyễn Văn H và Mai Tấn T phải liên đới bồi thường cho anh Nguyễn Khắc D tổng số tiền tổn thất tinh thần và tiền chi phí đi lại là  17.650.000đ (Mười bảy triệu sáu trăm năm mươi nghìn đồng), phần của mỗi bị cáo  là 8.800.000đ (Tám triệu tám trăm nghìn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và anh D có đơn yêu cầu thi hành án nếu chưa thi hành án, các bị cáo còn phải chịu thêm khoản tiền lãi trên số tiền và thời gian chưa thi hành án. Khoản tiền lãi chậm thi hành án được tính bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47; khoản 2, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) áo chống nắng màu đen, chất liệu bằng vải sợi, dài  77cm (cả phần mũ), rộng 47cm, tay áo dài 67cm, đã qua sử dụng; 02 (hai) chiếc dép màu đen, đã qua sử dụng, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 28cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 11cm; 01 (một) áo cộc tay màu xanh, đã qua sử dụng, dài  62cm, rộng 42cm, 02 (hai) chiếc dép màu đen, đã qua sử dụng, trên bề mặt 02 chiếc dép có dòng chữ “NIKE” màu xanh, cùng chủng loại, có cùng kích thước, dài 27cm, phần rộng nhất của mỗi chiếc dép là 11cm, 01 (một) quần đùi màu đen, đã qua sử dụng, dài 46cm, cạp quần rộng 27 cm, phần ống quần rộng 23cm (Đặc điểm của các vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Hà Trung với Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hà Trung ngày 27/9/2022).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2, Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 6, Khoản 1 Điều 23; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với bị cáo Nguyễn Văn H. Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị  quyết số 326/2016/UBTVQH14  ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với bị cáo Mai Tấn T.

Buộc bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí  hình sự sơ thẩm và 440.000đ (Bốn trăm bốn mươi nghìn đồng) án phí dân sự sơ  thẩm.

Miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm cho bị cáo Mai  Tấn T.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong  thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án Dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

247
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật và cưỡng đoạt tài sản số 77/2022/HS-ST

Số hiệu:77/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về