Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật số 56/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAN LỘC, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 56/2022/HS-ST NGÀY 14/12/2022 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Ngày 14/12/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2022/TLST- HS ngày 07/11/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2022/QĐXXST- HS ngày 02/12/2022 đối với bị cáo:

Bùi Huy L; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 20/12/1997 tại xã Khánh Vĩnh Y, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Thái Kiều, xã Khánh Vĩnh Y, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Bùi Huy C (Đã chết) và bà Thái Thị B; Sinh năm: 1955; Vợ con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 17/8/2022 đến nay; Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

- Bị hại: Cháu Trần Thị Phương T; Sinh ngày 22/10/2005; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Địa chỉ: Thôn Mỹ Thủy, xã Thanh L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của cháu Trần Thị Phương T: Bà Trần Thị Q; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ: Thôn Mỹ Thủy, xã Thanh L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

+ Ông Mai Khắc H; Sinh năm 1976; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ: Thôn Thái Kiều, xã Khánh Vĩnh Y, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

+ Ông Đỗ Thanh D; Giám đốc điều hành hợp tác xã may mặc G; Địa chỉ: Số nhà 139 đường Trần P, thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Chị Nguyễn Thị Phương T2; Sinh năm 1980; Nghề nghiệp: Công nhân; Địa chỉ: Thôn Thái Kiều, xã Khánh Vĩnh Y, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Vắng mặt.

+ Ông Nguyễn Văn M; Sinh năm 1971; Nghề nghiệp: Bảo vệ; Địa chỉ: Thôn Hạ Triều, xã Khánh Vĩnh Y, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

+ Chị Trần Thị Q; Sinh năm 1996; Địa chỉ: thôn Thanh Mỹ, xã Thanh L, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

+ Bà Thái Thị B; Sinh năm 1955; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Địa chỉ: Thôn Thái Kiều, xã Khánh Vĩnh Y, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng giữa tháng 6/2022, Bùi Huy L và cháu Trần Thị Phương T quen biết, phát sinh tình cảm yêu đương. Đến đầu tháng 7/2022, Bùi Huy L vào thành phố Dĩ An, tỉnh B Dương làm việc. Được một thời gian cháu T nhắn tin chia tay L với lý do gia đình không đồng ý. Tuy nhiên, L không chấp nhận chia tay, muốn hàn gắn tình cảm với cháu T. Cuối tháng 7/2022, cháu T đăng ảnh người yêu mới lên Facebook nên L tức giận, nhắn tin đe dọa cháu T sẽ có hậu quả nếu chia tay với L. Cháu T nghĩ L chỉ dọa nên không sợ mà còn nhắn tin thách thức lại L. Đầu tháng 8/2022, L trở về địa phương, tìm gặp cháu T để nói về chuyện tình cảm của hai người nhưng cháu T né tránh nên L tiếp tục nhắn tin, gọi điện nhiều lần qua mạng xã hội Messeger Facebook đe dọa cháu T. Trưa ngày 17/8/2022, L đến nhà anh Mai Khắc H uống rượu. Đến khoảng 13 giờ 20 phút cùng ngày, L nảy sinh ý định khống chế, bắt giữ cháu T để giải quyết mâu thuẫn tình cảm. Khi ra khỏi nhà anh H thì L nhìn thấy ở chuồng vịt có 01 con dao nem lưỡi dao bằng kim loại, cán dao bằng gỗ thì cầm con dao dắt vào vạt quần sau lưng để làm công cụ khống chế cháu T. L đi bộ đến nơi làm việc của cháu T tại Hợp tác xã may mặc G. Khoảng 13 giờ 30 phút, L đi vào xưởng may, cầm dao ở tay và hét to: “T mô rồi?”. Cháu T lúc đó đang ngồi may tại dãy bàn thứ 2, thấy L cầm dao tiến lại gần thì bỏ chạy nhưng không kịp. L nhảy qua bàn, tay trái bóp cổ cháu T, tay phải cầm dao dùng phần lưỡi dao dí sát cổ cháu T khống chế. Lúc này những người có mặt tại xưởng may sợ hãi nên bỏ chạy ra ngoài. Cháu T hoảng sợ, khóc lóc xin L thả ra nhưng L không đồng ý. Lực lượng Công an, đại diện chính quyền địa phương và mẹ của L (bà B) đến vận động, khuyên nhủ L thả T rồi nói chuyện, nhưng L không đồng ý. L dùng dao chém vỡ 02 bóng đèn Neon, tự cứa vào cổ và chém vào đầu của mình nhiều nhát gây thương tích và yêu cầu mọi người tránh ra xa. Trong quá trình L tự gây thương tích cho bản thân thì cháu T hoảng sợ nên đã dùng tay phải của mình để đẩy con dao, cản việc L tự gây thương tích nên bị dao cắt gây ra 01 vết thương hở dài 3,5cm ở vùng mặt trong cẳng tay phải. Sau đó, L đập dao vào bàn may làm lưỡi dao văng ra khỏi cán dao, L vứt cán dao xuống nền nhà, cầm lấy lưỡi dao, tiếp tục khống chế cháu T. Lực lượng Công an, chính quyền địa phương và người thân của L tiếp tục vận động, thuyết phục L vứt dao, thả người nhưng L vẫn không đồng ý, yêu cầu mọi người tránh ra để L và cháu T nói chuyện riêng.

Lúc này, lực lượng chức năng thuyết phục L di chuyển sang phòng bảo vệ thì L đồng ý. Quá trình di chuyển từ xưởng may sang phòng bảo vệ, L khống chế T bằng cách áp sát cháu T từ phía sau, tay trái quàng cổ T, tay phải cầm lưỡi dao, có khi dí vào cổ T, có khi vung dao xung quanh yêu cầu mọi người tránh ra xa, không được lại gần. L khống chế T vào phòng bảo vệ, rồi chốt cửa từ bên trong, mở cửa sổ phòng bảo vệ và chỉ nói chuyện với người khác qua cửa sổ. Lực lượng công an tiếp tục vận động L vứt dao, thả người. Đến 15 giờ 40 phút cùng ngày, Bùi Huy L nhận thức được hành vi vi phạm của mình nên đã bẻ cong con dao vứt xuống nền nhà, mở cửa phòng và thả cháu T ra.

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 181/2022/TgT ngày 04/11/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Tĩnh kết luận về thương tích của Trần Thị Phương T: Mặt trước trong 1/3 dưới cẳng tay phải sẹo vết thương kích thước (2,1x0,5)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 1%. Thương tích do vật sắc tác động vào gây nên.

Về vật chứng: Lực lượng chức năng đã thu tại hiện trường: 01 lưỡi dao bằng kim loại bị bẻ cong, dài 35cm, nơi rộng nhất 06cm, nơi nhỏ nhất 02cm, có dính máu; 01 cán dao bằng gỗ, dài 12,5cm, rộng 03cm ; 01 chiếc áo sơ mi màu nâu đỏ, kẻ sọc, dính máu và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max, màu vàng, số IMEI: 353893107975048 lắp sim số 0325.278.X của Bùi Huy L; 01 đôi dép màu trắng, đã qua sử dụng của cháu Trần Thị Phương T.

Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Can Lộc đã trả lại cho cháu Trần Thị Phương T 01 đôi dép màu trắng, đã qua sử dụng. Các vật chứng còn lại hiện được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Can Lộc.

* Về trách nhiệm dân sự:

Về thiệt hại của Hợp tác xã may mặc G: Quá trình khống chế cháu Trần Thị Phương T, Bùi Huy L đã làm vỡ 02 bóng đèn neon của Hợp tác xã may mặc G. Do thiệt hại nhỏ, không đáng kể nên người đại diện hợp pháp Hợp tác xã may mặc G không yêu cầu bồi thường.

Với thương tích của cháu Trần Thị Phương T, người đại diện hợp pháp của bị hại và bị hại không yêu cầu bồi thường dân sự.

Ngày 04/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Can Lộc ban hành bản kết luận điều tra số 54/KLĐT đề nghị truy tố Bùi Huy L về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo điểm e khoản 2 Điều 157 Bộ luật Hình sự.

Ngày 04/11/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Can Lộc truy tố Bùi Huy L về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo điểm e khoản 2 Điều 157 Bộ luật Hình sự tại Cáo trạng số 54/CT-VKS-CL.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, khai nhận hành vi khống chế, bắt giữ cháu Trần Thị Phương T như Cáo trạng truy tố, xin được khoan hồng giảm nhẹ hình phạt.

Lời khai của bà Thái Thị B, chị Nguyễn Thị T, anh Nguyễn Văn M, chị Trần Thị Q đều thống nhất với lời khai của bị cáo, bị hại, cho thấy trong khoảng thời gian từ khoảng 13 giờ 20 phút đến 16 giờ 40 phút ngày 17/8/2022, Bùi Huy L đã dùng 01 con dao để khống chế cháu Trần Thị Phương T, không cho ai lại gần.

Cháu Trần Thị Phương T và người đại diện hợp pháp đều trình bày hiện tại sức khỏe và tinh thần của cháu T đã ổn định, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm e khoản 2 Điều 157, Điều 32, Điều 38, điểm s khoản 1,2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 30 đến 36 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/8/2022; Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu, tiêu hủy lưỡi dao và cán dao của anh Mai Khắc H, áo sơ mi của bị cáo; Trả lại cho bị cáo chiếc điện thoại Iphone; Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo không tranh luận với Kiểm sát viên, xin được khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp, tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Những người tham gia tố tụng không có khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên.

Cháu Trần Thị Phương T và người đại diện hợp pháp tự nguyện từ chối quyền được trợ giúp pháp lý miễn phí nên cơ quan tiến hành tố tụng không liên hệ với Trung tâm trợ giúp pháp lý cử Trợ giúp viên cho cháu T là đúng quy định.

[2] Về trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo là khách quan, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận:

Do mâu thuẫn về tình cảm từ trước, trong khoảng thời gian từ 13 giờ 30 phút đến 15 giờ 40 phút ngày 17/8/2022 tại Hợp tác xã may mặc G, thôn Hạ Triều, xã Khánh Vĩnh Y, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, Bùi Huy L đã có hành vi dùng dao dí vào cổ cháu Trần Thị Phương T để khống chế, bắt, giữ không cho cháu Trần Thị Phương T vượt ra ngoài sự kiểm soát của L trái quy định pháp luật. Tại thời điểm Bùi Huy L thực hiện hành vi phạm tội, cháu Trần Thị Phương T mới 16 tuổi 10 tháng 26 ngày.

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm quyền bất khả xâm phạm về thân thể của cháu Trần Thị Phương T được quy định tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013, Điều 10, 11 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Việc khởi tố, truy tố, xét xử bị cáo về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo khoản 2 Điều 157 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.

Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, được bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; có bố đẻ (ông Bùi Huy Cường) là thương binh hạng 4/4 nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về hướng xử lý đối với bị cáo: Bị cáo dùng hung khí nguy hiểm khống chế, bắt giữ cháu Trần Thị Phương T là trẻ vị thành niên trong khoảng thời gian 02 giờ đồng hồ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm, xâm phạm đến quyền tự do thân thể của cháu T, thể hiện sự coi thường pháp luật nên cần phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian như đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[3] Về dân sự: Bị hại, đại diện hợp pháp của bị hại và những người liên quan không có ý kiến gì về bồi thường dân sự nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[4] Về xử lý vật chứng: Anh H không có nguyện vọng nhận lại con dao mà bị cáo sử dụng để khống chế cháu Trần Thị Phương T; bị cáo cũng không có nguyện vọng nhận lại chiếc áo sơ mi dính máu của mình nên cần phải tịch thu tiêu hủy các tài sản này. Chiếc điện thoại của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho chủ sở hữu như nguyện vọng của bị cáo và đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định. Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm e khoản 2 Điều 157; Điều 32; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 6; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Huy L phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Huy L 30 tháng tù. Thời hạn tù kể từ ngày 17/8/2022.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy lưỡi dao bằng kim loại và cán dao bằng gỗ của anh Mai Khắc H, áo sơ mi màu nâu đỏ của Bùi Huy L; Trả lại cho Bùi Huy L 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Pro Max, màu vàng, số IMEI: 353893107975048 lắp sim số 0325.278.X.

Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Huy L phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

89
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật số 56/2022/HS-ST

Số hiệu:56/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Can Lộc - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về