Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ GẠO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 15/06/2023 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Ngày 15 tháng 6 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 27/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn R(B), sinh năm 1979 tại Tiền Giang; Nơi cư trú: ấp Bình L, xã Song B, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang; nghề nghiệp: làm vườn; trình độ văn hoá (trình độ học vấn): 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn B sinh năm 1931 (chết) và con bà Phan Thị Ph sinh năm 1932 (chết); vợ Võ Thị Ngọc L sinh năm 1985 (đã ly hôn); con 02 con, lớn sinh năm 2005, nhỏ sinh năm 2007; tiền sự: không; tiền án: 01 lần, Bản án số 102/2020/HSST ngày 14/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chấp hành hình phạt tù xong 17/7/2021, chưa thi hành phần án phí); tiền sử:

Quyết định số 165/QĐ-UB ngày 02/10/2003 của Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở giáo dục thời hạn 12 tháng (chấp hành xong 07/9/2004).

Bị cáo bị tạm giữ ngày 21-01-2023, tạm giam ngày 24-01-2023 cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Đặng Thị Ngọc T, sinh năm 1980; (có mặt) Nơi cư trú: ấp Bình A, xã Đăng Hưng Ph, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Phan Thị Kim D, sinh năm 1987; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Bình L, xã Song B, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

* Người làm chứng: Phan Văn Th, sinh năm 1973; (vắng mặt) Nơi cư trú: ấp Bình L, xã Song B, huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Văn R và bị hại chị Đặng Thị Ngọc T có quan hệ tình cảm và chung sống như vợ chồng từ khoảng tháng 6/2022. Quá trình chung sống chị T có mượn của bị cáo 7.000.000 đồng để lo cho các con riêng.

Vào khoảng 23 giờ ngày 20/01/2023 bị cáo điều khiển xe mô tô biển số 63S7- xxxx (xe Nouvo) đến nhà và yêu cầu chị T lên xe bị cáo chở về nhà để nói chuyện tiền bạc. Khi đến nhà bị cáo đóng cửa lại, chửi mắng chị T rồi dùng tay và 01 khúc gỗ (loại cây gậy) hình trụ tròn dài 87cm để đánh nhiều cái trúng vào người chị T gây thương tích. Suốt đêm 20/01/2023 đến trưa ngày 21/01/2023 bị cáo cầm khúc gỗ canh giữ không cho chị T rời khỏi nhà.

Đến khoảng 11 giờ trưa ngày 21/01/2023 lợi dụng lúc đi vệ sinh bị cáo không cảnh giác, chị T bỏ chạy nhảy qua hàng rào chạy vào nhà anh Phan Văn Th (ngụ cùng ấp bị cáo) trốn thì bị R cầm khúc gỗ đuổi theo. Tại đây anh Th kêu R đừng đánh chị T và giật lấy khúc gỗ trên tay R, bị cáo dùng 02 cây tre (loại cây cần câu) dài khoảng 60cm đánh rồi nắm cổ áo chị T kéo về nhà R. về đến nhà bị cáo dùng 01 sợi dây xích bằng kim loại (dây xích chó) dài 1,65 mét trói chân trái chị T vào gốc cột phía sau nhà R và dùng ổ khóa khóa lại. Khoảng 10 phút sau lực lượng Công an xã Song Bình đến nhà R phát hiện sự việc và thông báo Cơ quan Cảnh sát Điều tra- Công an huyện Chợ Gạo thụ lý giải quyết.

+ Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của chị Đặng Thị Ngọc T ngày 21/01/2023 ghi nhận:

- Xây xát da mí mắt phải, dưới đuôi mày trái, kích thước (2 x 0,5) cm;

- Xây xát vùng mũi, kích thước (2 x 0,5) cm;

- Xây xát cổ tay phải, kích thước ( 4 x 0,5) cm;

- Sưng đỏ mu bàn tay phải, kích thước (3,5 x 2,5) cm;

- Sưng đỏ toàn bộ mu bàn tay trái;

- Xây xát da bắp tay trái, kích thước (5 x 2) cm;

- Bầm tụ máu trên khuỷu tay trái;

- Bầm vai trái;

- Bầm tụ máu bắp chân trái;

- Bầm tụ máu hông trái;

- Bầm tụ máu đùi trái.

* Giấy chứng nhận thương tích số 04 ngày 27/01/2023 của Trung tâm y tế huyện Chợ Gạo và Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 36/2023/TgT ngày 07/02/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Tiền Giang kết luận:

+ Vết thay đổi sắc tố da 1/3 dưới sau cẳng tay phải. Tỷ lệ 0,5%;

+ Vết thay đổi sắc tố da 1/3 dưới trước trong cẳng chân phải. Tỷ lệ 01%;

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Đặng Thị Ngọc T là 01% (một phần trăm). Thương tích do vật tầy gây nên.

Ngày 02/02/2023 chị Đặng Thị Ngọc T có đơn xin rút yêu cầu khởi tố đối với hành vi “Cố ý gây thương tích”.

Bản cáo trạng số 32/CT-VKSCG ngày 18/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, tỉnh Tiền Giang truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Văn R đã phạm vào tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” theo khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự năm 2015. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn R phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.

Áp dụng khoản 1 Điều 157; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn R từ 01 năm 06 tháng tù – 02 năm tù;

* Vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 dây xích kim loại dài 1,65 mét;

- 01 ổ khóa bằng kim loại, nhãn hiệu Việt Nhật;

- 03 chìa khóa bằng kim loại;

- 01 khúc gỗ hình trụ dài 87 cm, đường kính nơi rộng nhất là 2,6 cm, nơi hẹp nhất là 2,1 cm;

- 02 cây nẹp bằng gỗ tre dài 60,5 cm.

+ Trả lại cho chị Đặng Thị Ngọc T 01 (một) xe mô tô 02 bánh kiểu dáng Nouvo màu đen bạc biển số 63S7-xxxx.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn R đã khai nhận hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo đã truy tố đối với bị cáo. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người liên quan, người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó đã có cơ sở xác định: Vào khoảng 23 giờ đêm 20/01/2023 đến trưa ngày 21/01/2023 bị cáo bắt, giữ không cho chị T rời khỏi nhà bị cáo, mặc dù chị T đã lợi dụng lúc đi vệ sinh để nhảy qua hàng rào chạy vào nhà anh Phan Văn Th (ngụ cùng ấp bị cáo) để trốn nhưng vẫn bị R đuổi theo bắt lại, sau đó dùng 01 sợi dây xích bằng kim loại (dây xích chó) dài 1,65 mét trói chân trái chị T vào gốc cột phía sau nhà R và dùng ổ khóa khóa lại.

Tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự quy định:

“ 1. Người nào bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 153 và Điều 377 của Bộ luật này, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm;” Như vậy hành vi của bị cáo như nhận định trên, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự.

[2] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể, tự do cá nhân của chị T. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật sẽ bị pháp luật trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo bất chấp pháp luật cố ý thực hiện tội phạm. Về nhân thân bị cáo có 01 tiền sử về hành vi “Gây rối trật tự công cộng”, có 01 tiền án về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chưa được xóa án tích. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Do đó cần có mức án thật nghiêm khắc để cải tạo giáo dục bị cáo thành công dân tốt có ích cho xã hội và phòng ngừa chung. Tuy nhiên xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo có thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tại phiên tòa chị T có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó nên cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt khi lượng hình.

[3] Lời luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ nội dung cáo trạng đã truy tố và hướng giải quyết về xử lý vật chứng, là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Chợ Gạo, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

+ Cần tịch thu tiêu hủy các vật chứng sau không còn giá trị sử dụng:

- 01 dây xích kim loại dài 1,65 mét;

- 01 ổ khóa bằng kim loại, nhãn hiệu Việt Nhật;

- 03 chìa khóa bằng kim loại;

- 01 khúc gỗ hình trụ dài 87 cm, đường kính nơi rộng nhất là 2,6 cm, nơi hẹp nhất là 2,1 cm;

- 02 cây nẹp bằng gỗ tre dài 60,5 cm.

+ Đối với 01 xe mô tô 02 bánh kiểu dáng Nouvo màu đen bạc biển số 63S7-xxxx là của chị Tuyền nên cần trả lại cho chị Tuyền.

[6] Trách nhiệm dân sự: Chị T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường các khoản chi phí điều trị, tổn thất tinh thần... Do đó Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[7] Đối với hành vi “Cố ý gây thương tích” của bị cáo gây thương tích cho chị Tuyền với tỷ lệ thương tật 01%, vào ngày 02/02/2023 chị T có đơn xin rút yêu cầu khởi tố. Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Chợ Gạo không khởi tố, Viện kiểm sát nhân dân huyện Chợ Gạo không truy tố là đúng theo quy định của pháp luật.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn R phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 157; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn R 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/01/2023.

* Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

+ Tịch thu tiêu hủy:

- 01 dây xích kim loại dài 1,65 mét;

- 01 ổ khóa bằng kim loại, nhãn hiệu Việt Nhật;

- 03 chìa khóa bằng kim loại;

- 01 khúc gỗ hình trụ dài 87 cm, đường kính nơi rộng nhất là 2,6 cm, nơi hẹp nhất là 2,1 cm;

- 02 cây nẹp bằng gỗ tre dài 60,5 cm.

+ Trả lại cho chị Đặng Thị Ngọc T 01 xe mô tô 02 bánh kiểu dáng Nouvo màu đen bạc biển số 63S7-xxxx (có dấu vết sơn lại màu trắng).

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29-5-2023)

+ Về án phí: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Nguyễn Văn R phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí Hình sự sơ thẩm.

+ Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.

Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; Người liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Gạo - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về