TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NINH KIỀU, THÀNH PHỐ CẦN THƠ
BẢN ÁN 166/2023/HS-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT
Ngày 22 tháng 9 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 149/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 734/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 8 năm 2023, đối với các bị cáo:
1/ LÊ NGỌC L; Tên gọi khác: không; Sinh ngày 28 tháng 10 năm 1976; Nơi sinh: Thanh Hóa.
Nơi ĐKTT: số 618/38/3 đường Q, Phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở: 212/61/20 đường N, Phường C, Quận C, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha tên: Lê Ngọc B (đã mất); Mẹ tên: Nguyễn Thị L, sinh năm 1945; Chị ruột: có 01 người, sinh năm 1974; Vợ tên: Lê Phạm Tường V, sinh năm 1981 (Bị cáo chung vụ án) Con: có 01 người, sinh năm 2008;
- Tiền án; Tiền sự: chưa Bị cáo bị bắt khẩn cấp, tạm giữ từ ngày 09/5/2023, đến ngày 18/5/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N.
2. LÊ PHẠM TƯỜNG V; Tên gọi khác: không, Sinh ngày 02 tháng 7 năm 1981; Nơi sinh: Tiền Giang;
- Nơi ĐKTT: Số F đường Q, Phường A, quận G, thành phố Hồ Chí Minh. Chỗ ở: 212/61/20 đường N, Phường C, Quận C, thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Kinh doanh; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha tên: Lê Thành T (Đã chết); Mẹ tên: Phạm Thị H, sinh năm 1945; A, C, Em ruột: có 03 người, sinh năm 1975, 1977, 1990; Chồng tên: Lê Ngọc L1, sinh năm 1976 (Bị cáo chung vụ án), Con: có 01 người, sinh năm 2008;
- Tiền án; Tiền sự: chưa Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chăm cấm đi khỏi nơi cư trú.
3. HOÀNG VĂN T Tên gọi khác: không; Sinh ngày 01 tháng 4 năm 1991; Nơi sinh: Bắc Giang;
- Nơi ĐKTT: Thôn P, xã P, huyện L, tỉnh Bắc Giang. Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 7/12; Dân tộc: Tày; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha tên: Hoàng Văn B1 (Đã chết); Mẹ tên: Lâm Thị C1, sinh năm 1966; Anh ruột: có 01 người, sinh năm 1989; Bị cáo chưa có vợ, con.
- Tiền án: không. Tiền sự: chưa.
Bị cáo đầu thú, bị tạm giữ từ ngày 15/5/2023, đến ngày 18/5/2023 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ - Công an quận N.
Các bị cáo có mặt tại phiên tòa.
*Bị hại: Trần Đặng Kim B2, sinh năm 1975 (Vắng mặt) Nơi thường trú: Khu vực B, phường P, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ.
Chỗ ở: Số 384A/14B Trần Nam Phú, phường A, quận Ninh Kiều, thành phố Cần Thơ. (0939X051 - 0939858X)
*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1/ Đặng Kim C2, sinh năm 1991 (Vắng mặt) (0907078X) Địa chỉ: Khu V, phường P, quận Ô, thành phố Cần Thơ.
2/ Nguvễn Viết C3, sinh năm 1977 (Vắng mặt) (0915701X) Địa chỉ: Số C, phường N, quận C, thành phố Hà Nội.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Lê Ngọc L1 và vợ là bị cáo Lê Phạm T1 V có hợp tác kinh doanh cùng bị hại Trần Đặng Kim B2. Khoảng tháng 6/2022, bà B2 đã thiếu vợ chồng bị cáo L1, V tổng số tiền 980.000.000 đồng; vợ chồng bị cáo đã nhiều lần yêu cầu bà B2 trả tiền nhung bị hại không trả và luôn lẫn tránh. Do cần vốn kinh doanh, cũng như thanh toán nợ cho người khác nên hai bị cáo L1, V đã nhờ bị cáo Hoàng Văn T2 hỗ trợ tìm bị hại để đòi nợ, T2 đồng ý. Ba bị cáo sử dụng xe ô tô biển số 65C - X từ Thành phố Hồ Chí Minh đi nhiều nơi tìm bà B2, ngày 05/5/2023 ba bị cáo đến thành phố Cần Thơ, do biết bị hại thường xuyên đi khiêu vũ nên ba bị cáo chia ra đi đến các tụ điểm ca hát, khiêu vũ để tìm bà B2. Đến khoảng 19 giờ 40 phút ngày 07/5/2023, L1 và V tìm thấy bà B2 đang cùng anh Phạm Hữu L2 (Bạn trai của B2) đang khiêu vũ tại quán V1, địa chỉ số G đường L, phường C, quận N thì V gọi điện thoại, gửi định vị cho T2 để đến hỗ trợ; đồng thời, cùng L1 đi vào quán gọi bà B2 đi ra ngoài nói chuyện. Khi bà B2 đi ra trước cửa quán V1, L1 yêu cầu bà B2 trả nợ nhưng bà B2 không trả lời, chỉ chú ý sử dụng điện thoại nên L1 lấy điện thoại của bà B2 đưa cho V cất giữ. L1 lấy xe ô tô và yêu cầu bà B2 lên xe ô tô 65C-X để tìm chỗ khác nói chuyện, bà B2 không đồng ý, bỏ đi vào quán Ố, số D - 44, đường L, phường C (Đối diện quán V1), lúc này T2 cũng đã đến nên đi theo ngồi cùng bàn với bà B2, T2 và V liên tục yêu cầu bà B2 lên xe ô tô tìm nơi khác để nói chuyện nhưng bà B2 không đồng ý. Khi L1 lấy xe ô tô xong, đi vào quán ốc H1, bà B2 liền dùng tay phải cầm ly thủy tinh (Loại ly có quai thường dùng uống bia) trên bàn định chống trả lại, ngay lập tức T2 giữ tay phải của bà B2, còn L1 cầm tay trái của bà B2 khóa tay về phía sau, cùng T2 khống chế đưa bà B2 ra xe ô tô, mặc cho bà B2 không đồng ý đi; khi đến cửa xe ô tô, bà B2 tiếp tục phản kháng, la lớn “bắt cóc, bắt cóc người” nhưng không có ai đến giúp, nghe bà B2 la hét, L1 đã dùng tay trái đánh một cái vào cổ phía sau của bị hại để đẩy bị hại lên xe ngồi hàng ghế phía sau, T2 và V ngồi hai bên giữ bà B2 ngồi ở giữa, còn L1 điều khiển xe ô tô đến đoạn đất trống ở đường N, L1 dừng xe, tiếp tục thỏa thuận tiền nợ với bị hại, yêu cầu bị hại gọi điện thoại tác động gia đình trả nợ, nhưng bị hại không thực hiện. Do trời tối, ba bị cáo đưa bị hại đến khách sạn H2 ở khu dân cư H, phường A, thuê phòng 101 và cả 04 người ở cùng phòng; tại đây, bị cáo V đưa lại điện thoại cho bị hại sử dụng, yêu cầu bà B2 tiếp tục gọi điện thoại cho người thân gửi vào tài khoản của L1 để trả trước số tiền 200.000.000 đồng, bị hại vẫn không đồng ý.
Do bị hại nói là còn những giấy công nợ hiện do Đặng Kim C2 (Em ruột bị hại) đang giữ nên khoảng 10 giờ 00 ngày 08/5/2023, L1 tiếp tục điều khiển xe ô tô 65C-X cùng với T2 và V khống chế, chở bị hại đến quán cơm của bà Đặng Kim C2 ở phường P, quận Ô để yêu cầu chị C2 đưa các giấy tờ công nợ kinh doanh gạo của bị hại cho L1, V trừ nợ, lúc đến gần quán cơm, bị cáo L1 dừng xe để bị cáo V đi vào gặp chị C2, sau khi đã nói chuyện nhưng chị C2 không đồng ý đưa giấy tờ công nợ của bị hại nên bị cáo V quay trở ra xe. Bực tức vì bị bị hại lừa dối, không có thành ý trả nợ nên ba bị cáo đưa bị hại về thành phố Hồ Chí Minh giữ tại nhà của hai bị cáo L1, V (Địa chỉ số 212/61/20, đường N, Phường C, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh) để gây áp lực, buộc người thân của bị hại trả nợ cho hai bị cáo. Riêng bị cáo Hoàng Văn T2, sau khi đưa bị hại về nhà của L1, V thì T2 đi việc riêng của mình ở tỉnh Bình Phước.
Đến khoảng 08 giờ 00 ngày 09/5/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận N phối hợp với Công an thành phố H kiểm tra nhà số B, đường N, Phường C, Quận C, thành phố Hồ Chí Minh của hai bị cáo L1, V, phát hiện bị hại Trần Đặng Kim B2 đang ở tại phòng số 5, lầu A, trong nhà có cả L1 và V nên đưa tất cả về trụ sở Công an làm việc.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 xe ô tô nhãn hiệu NISSAN NAVARA EL màu trắng, biển số: 65C - X, số máy YD25948602T, số khung MNTCC2D23Z0091722, loại xe 05 chỗ ngồi; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax màu xám, số seri FK1ZFDMFN70H, số máy AX1 gắn sim số 0931090X và sim số 0966236X; 01 điện thoại di động hiệu Vsmart Joy 4 màu xanh xám, số Imei: 351088469903215, gắn sim số: 0795691X; 01 quần jean dài, màu xanh, 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ, 01 đôi giày hiệu Kappa, màu đen trắng (Thu giữ của Lê Ngọc L1);
- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, màu tím, số Imei: 353969108955963, gắn sim số 0947820X; 01 bộ đồ quần dài và áo ngắn tay nữ hiệu LINEN, màu trắng, 01 túi đeo quai ngang, màu xanh rêu, 01 đôi giày hiệu Adidas, màu trắng (Thu giữ của Lê Phạm Tường V);
- 02 đĩa DVD chứa các video trích xuất dữ liệu camera. (Bút lục: 52, 58, 61-67) Đến ngày 15/5/2023, Hoàng Văn T2 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận N, thành phố Cần Thơ đầu thú và giao nộp 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 6 pro, màu đen, số Imei: 868931031437665, gắn sim số 0988476X; 01 áo sơ mi tay ngắn, màu xanh có in hình hoa màu trắng, 01 quần jean dài, màu xanh, 01 đôi giày da, màu đen (Bút lục: 59).
Tại Cơ quan điều tra, các bị cáo Lê Ngọc L1, Lê Phạm Tường V, Hoàng Văn T2 thừa nhận hành vi phạm tội. Hai bị cáo Lê Ngọc L1, Lê Phạm Tường V khai do vợ chồng bị cáo cũng có khoản nợ phải thanh toán và đã rất nhiều lần yêu cầu bị hại trả nợ nhưng bị hại luôn trì hoãn, tránh mặt khi đến thời hạn trả nợ nên hai bị cáo nhờ bị cáo Hoàng Văn T2, mục đích muốn có thêm người để chia nhau tìm bị hại đòi nợ. Bị cáo Hoàng Văn T2 khai nhận do muốn giúp vợ, chồng bị cáo L1 và V lấy lại được số tiền nợ nên đồng ý cùng đi tìm bị hại. Ba bị cáo không có ý định và không bàn bạc kế hoạch bắt giữ bị hại; tuy nhiên, khi tìm gặp được bị hại thì bị hại lại tiếp tục tỏ thái độ không thành ý thanh toán nợ, bực tức nên ba bị cáo đã khống chế, bắt bị hại đưa về giữ tại nhà bị cáo L1 và V.
Bị hại Trần Đặng Kim B2 khai nhận suốt thời gian bị ba bị cáo khống chế trên xe ô tô và tại nhà của hai bị cáo L1, V, bị hại không bị đánh đập, đe dọa mà vẫn ăn uống cùng hai vợ chồng bị cáo L1, V và sử dụng điện thoại liên lạc bình thường.
Đối với 01 xe ô tô biển số 65C-X, nhãn hiệu NISSAN, màu trắng, số loại: NAVARA EL, số chỗ ngồi: 05, số máy: YD25948602T, số khung: MNTCC2D23Z0091722 do Công ty TNHH Đ, có trụ sở tại B, đường H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ đứng tên đăng ký xe, giám đốc Công ty là anh Nguyễn Viết C3, anh C3 cho bị cáo Lê Ngọc L1 (Bạn của anh C5) mượn để sử dụng, không biết L1 sử dụng vào mục đích phạm tội, anh C3 có đơn xin nhận lại xe (Bút lục: 262-272, 305).
Quá trình điều tra, các bị cáo Lê Ngọc L1, Lê Phạm Tường V, Hoàng Văn T2 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; riêng bị cáo T2 đã ra đầu thú khi biết Công an truy tìm.
Về nhân thân, bị cáo L1, V chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo T2 có tiền án nhưng đã được xóa án tích.
Bản Cáo trạng số 161/CT-VKSNK ngày 02/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố các bị cáo Lê Ngọc L1, Lê Phạm Tường V, Hoàng Văn T2 về tội “Bắt, giữ người trái phép” theo khoản 1 Điều 157 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát: Giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo, đồng thời phân tích hành vi, tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng, nhân thân và vai trò các bị cáo; đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Lê Ngọc L1, Lê Phạm Tường V, Hoàng Văn T2 phạm tội “Bắt giữ người trái phép”;
1. Về trách nhiệm hình sự:
- Đối với bị cáo Lê Ngọc L1 : Áp dụng khoản 1 Điều 157; Điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS. Xử phạt bị cáo L1: 06 năm đến 01 năm tù.
- Đối với bị cáo Lê Phạm Tường V: Áp dụng khoản 1 Điều 157; Điểm i, s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 65 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo V: 06 tháng đến 01 năm tù, nhưng cho hưởng án treo.
- Đối với bị cáo Hoàng Văn T2: Áp dụng khoản 1 Điều 157; Điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51 ; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo T2: 06 tháng đến 01 năm tù.
2. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
- Trả lại tài sản:
+ Trả cho ông Nguyễn Viết C3: 01 Xe ô tô nhãn hiệu NISSAN NAVARA EL màu trắng, biển số: 65C - X, số máy YD25948602T, số khung MNTCC2D23Z0091722, loại xe 05 chỗ ngồi.
+ Trả bị cáo L1: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax màu xám, số seri FK1ZFDMFN70H, số máy AX1 gắn sim số 0931090X và sim số 0966236X; 01 điện thoại di động hiệu Vsmart Joy 4 màu xanh xám, số Imei: 351088469903215,gắn sim số: 079569X1;
+ Trả bị cáo V: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, màu tím, số Imei: 353969108955963, gắn sim số 0947820X;
+ Trả lại bị cáo T2: 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 6 pro, màu đen, số Imei: 868931031437665, gắn sim số 0988476X.
- Đối với các tài sản là đồ vật, tư trang cá nhân của các bị cáo, tại phiên tòa các bị cáo từ chối nhận này nên đề nghị tịch thu tiêu hủy:
+ Tài sản bị cáo L1: 01 quần jean dài, màu xanh, 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ, 01 đôi giày hiệu Kappa, màu đen trắng.
+ Tài sản của bị cáo V: 01 bộ quần dài và áo ngắn tay nữ hiệu LINEN, màu trắng, 01 túi đeo quai ngang, màu xanh rêu, 01 đôi giày hiệu Adidas, màu trắng.
+ Tài sản của bị cáo T2: 01 áo sơ mi tay ngắn, màu xanh có in hình hoa màu trắng, 01 quần jean dài, màu xanh, 01 đôi giày da, màu đen.
- Đối với 02 đĩa DVD dữ liệu camera lưu theo hồ sơ vụ án.
Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thống nhất về tội danh như Viện kiểm sát đã luận tội. Lời nói sau cùng bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt để trở thành công dân tốt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng vồ thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.
[2] Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ vào tình tiết vụ án và tại phiên tòa các bị cáo L1, V, T2 thừa nhận đã có hành vi khống chế và bắt giữ bị hại Trần Đặng Kim B2 từ ngày 07/5/2023 đến ngày 09/5/2023 do có mâu thuẫn về tiền nợ. Cụ thể vào ngày 07/5/2023 các bị cáo L1, V, T2 có hành vi dùng vũ lực đưa bị hại B2 lên xe ô tô đưa đến bãi đất trống ở đường N để yêu cầu bà B2 trả nợ, sau đó tiếp tục đưa bị hại đến khách sạn H2, Khu dân cư H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ và canh giữ bị hại, đến ngày 8/5/2023 do cho rằng bị hại không có ý định trả tiền nợ nên các bị cáo đưa bị hại lên nhà riêng của bị cáo V và L1 ở số B đường N, Phường C, Quận C, thành phố Hồ Chí Minh, giữ bị hại ở đây nhằm gây áp lực buộc người thân của bị hại trả nợ cho bị cáo V và L1. Riêng bị cáo T2 thì sau khi đưa bị hại về nhà L1 thì T2 đi việc riêng ở Bình Phước. Tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình. Lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên toà là thống nhất, phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ, và các chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp.
Vì vậy, Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân quận Ninh Kiều truy tố về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” quy định tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.
[3] Về tính chất hành vi phạm tội: Các bị cáo LI, V, T2 là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; nhận thức được hành vi của các bị cáo, hành vi khống chế bắt giữ bị hại của các bị cáo là cố ý, hành vi này là trái pháp luật đã xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh và trật tự công cộng, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.
Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Đây là vụ án đồng phạm, các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội mang tính chất giản đơn, các bị cáo bộc phát nhất thời, không có sự bàn bạc, phân công nhiệm vụ chặt chẽ trước khi phạm tội nên không thuộc trường hợp phạm tội có tổ chức, bị cáo L1 là người khởi xướng nên bị cáo L1 phải chịu trách nhiệm hình sự ở mức cao hơn so với các bị cáo còn lại, các bị cáo V, T2 phạm tội với vai trò giúp sức nên chịu trách nhiệm thấp hơn.
Qua đánh giá tính chất, mức độ phạm tội Hội đồng xét xử xem xét áp dụng hình phạt thích hợp, tương ứng từng hành vi của các bị cáo để răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội, thể hiện sự công bằng của pháp luật.
[4] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo L1, V: chưa có tiền án, tiền sự; Bị cáo T2: từng có tiền án về tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Đã xóa án tích), các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; thừa nhận hành vi phạm tội. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s, khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự; Bị cáo L1, V phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Cha mẹ ruột của bị cáo L1 có nhiều thành tích, huân chương kháng chiến chống Mỹ, huy chương, bằng khen của Nhà nước, Chính phủ nên Hội đồng xét xử xem xét cho 2 bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm i khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; Bị cáo Hoàng Văn T2 có tình tiết đầu thú, nên Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Với những phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy cần phải áp dụng một hình phạt tương xứng và cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện học tập, tu dưỡng để trở thành người có ích cho xã hội sau này. Đối với bị cáo V nhận thức được hành vi của các bị cáo, hành vi khống chế bắt giữ bị hại của các bị cáo là cố ý, hành vi này là trái pháp luật đã xâm phạm đến quyền tự do thân thể của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh và trật tự công cộng, xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nơi cư trú rõ ràng, có vai trò giúp sức. Do đó, Hội đồng xét xử cho bị cáo V được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung có hiệu quả mà không ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm này trong tình hình hiện nay.
[5] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tung Hình sự; Điều 46; Điều 47 Bộ luật Hình sự.
+ Trả lại cho ông Nguyễn Viết C3 01 xe ô tô biển số 65C-X, nhãn hiệu NISSAN, màu trắng, số loại: NAVARA EL, số chỗ ngồi: 05, số máy: YD25948602T, sổ khung: MNTCC2D23Z0091722 do Công ty TNHH Đ, có trụ sở tại B, đường H, phường A, quận N, thành phố Cần Thơ đứng tên đăng ký xe, giám đốc Công ty là anh Nguyễn Viết C3.
+ Trả bị cáo L1: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax màu xám, số seri FK1ZFDMFN70H, số máy AX1 gắn sim số 0931090X và sim số 0966236X; 01 điện thoại di động hiệu Vsmart Joy 4 màu xanh xám, số Imei: 351088469903215, gắn sim sổ: 079569X1;
+ Trả bị cáo V: 01 điện thoại di động hiệu Iphone 11, màu tím, số Imei: 353969108955963, gắn sim số 0947820X;
+ Trả lại bị cáo T2: 01 điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 6 pro, màu đen, số Imei: 868931031437665, gắn sim số 0988476X.
- Tịch thu tiêu hủy:
+ Tài sản bị cáo L1: 01 quần jean dài, màu xanh, 01 áo thun ngắn tay, màu đỏ, 01 đôi giày hiệu Kappa, màu đen trắng.
+ Tài sản của bị cáo V: 01 bộ quần dài và áo ngắn tay nữ hiệu LINEN, màu trắng, 01 túi đeo quai ngang, màu xanh rêu, 01 đôi giày hiệu Adidas, màu trắng.
+ Tài sản của bị cáo T2: 01 áo sơ mi tay ngắn, màu xanh có in hình hoa màu trắng, 01 quần jean dài, màu xanh, 01 đôi giày da, màu đen.
- Tịch thu lưu hồ sơ: 02 đĩa DVD dữ liệu camera.
(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/8/2023).
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.
[7] Xét thấy lời đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp với chứng cứ trong hồ sơ và nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận
[8] Về án phí: Các bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ: Áp dụng khoản 1 Điều 157; Điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Ngọc L1.
Áp dụng khoản 1 Điều 157; Điểm i, s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Lê Phạm Tường V.
Áp dụng khoản 1 Điều 157; Điểm s, khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Hoàng Văn T2.
[2] Tuyên bố: Các bị cáo Lê Ngọc L1, Lê Phạm Tường V, Hoàng Văn T2 phạm tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.
* Xử phạt:
1/ Bị cáo Lê Ngọc L1: 06 (Sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày 09/5/2023.
2/ Bị cáo Lê Phạm Tường V: 06 (S) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.
Thời gian thử thách là 12 tháng (Mười hai tháng) kể từ ngày tuyên án. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân Phường C4, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh quản lý, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (Hai) lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3/ Bị cáo Hoàng Văn T2: 06 (Sáu) tháng tù.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo tính từ ngày ngày 15/5/2023.
[3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Trả lại tài sản:
+ Trả cho ông Nguyễn Viết C3: 01 (Một) Xe ô tô nhăn hiệu NISSAN NAVARA EL màu trắng, biển số: 65C - X, số máy YD25948602T, số khung MNTCC2D23Z0091722, loại xe 05 chỗ ngồi.
+ Trả bị cáo L1: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 11 Promax màu xám, số seri LK1ZLDMLN70H, số máy AX1 gắn sim số 0931090X và sim số 0966236X; 01 (Một) điện thoại di động hiệu Vsmart Joy 4 màu xanh xám, số Imei: 351088469903215, gắn sim số: 079569X1;
+ Trả bị cáo V: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone 11, màu tím, số Imei: 353969108955963, gắn sim số 0947820X;
+ Trả lại bị cáo T2: 01 (Một) điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 6 pro, màu đen, số Imei: 868931031437665, gắn sim số 0988476X.
- Tịch thu tiêu hủy:
+ Tài sản bị cáo L1: 01 (Một) quần jean dài, màu xanh, 01 (Một) áo thun ngắn tay, màu đỏ, 01 (Một) đôi giày hiệu Kappa, màu đen trắng.
+ Tài sản của bị cáo V: 01 (Một) bộ quần dài và áo ngắn tay nữ hiệu LINEN, màu trắng, 01 (Một) túi đeo quai ngang, màu xanh rêu, 01 (Một) đôi giày hiệu Adidas, màu trắng.
+ Tài sản của bị cáo T2: 01 (Một) áo sơ mi tay ngắn, màu xanh có in hình hoa màu trắng, 01 (Một) quần jean dài, màu xanh, 01 (Một) đôi giày da, màu đen.
- Tịch thu lưu hồ sơ: 02 (Hai) đĩa DVD dữ liệu camera.
(Theo Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 03/8/2023).
[4] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Các bị cáo Lê Ngọc L1, Lê Phạm Tường V, Hoàng Văn T2 mỗi người phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày (Mười lăm ngày) kể từ ngày tuyên án. Bị hại, đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày (Mười lăm ngày) kể từ ngày tống đạt hoặc niêm yết Bản án.
Bản án về tội bắt, giữ người trái pháp luật số 166/2023/HS-ST
Số hiệu: | 166/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ninh Kiều - Cần Thơ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/09/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về