Bản án về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn (công việc không ổn định, nợ nần chồng chất) số 04/2021/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 04/2021/HNGĐ-PT NGÀY 16/03/2021 VỀ THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON SAU KHI LY HÔN

Ngày 16 tháng 3 năm 2021 Tòa án nhân dân tỉnh T xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 03/2021/TLPT-HNGĐ ngày 22 tháng 02 năm 2021 về việc tranh chấp “Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 01/2021/HNGĐ-ST ngày 21 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân thành phố S, tỉnh T bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 02/2021/QĐXX-PT ngày 05 tháng 3 năm 2021 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Bằng Thị Thu H, sinh năm 1993 HKTT cũ: Tổ dân phố TH, phường PC, Tp S, T. Nay HKTT: Xóm CT, xã TH, thị xã P, tỉnh T.

( Có mặt tại phiên tòa)

2. Bị đơn: Anh Lê Trọng K, sinh năm 1993 HKTT: Tổ dân phố TH, phường PC, Tp S, T.

(Có mặt tại phiên tòa)

3. Người kháng cáo: Anh Lê Trọng K là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết và tại phiên toà nguyên đơn chị Bằng Thị Thu H trình bày:

Chị và anh Lê Trọng K đã được Tòa án nhân dân thành phố S, Tỉnh T giải quyết ly hôn. Tại Quyết định Công nhận thuận tình ly hôn số 79/2019/HNGĐ-ST ngày 25/6/2019 thì con chung của chị H, anh K là cháu Lê Trung A, sinh ngày 01/4/2015 được giao cho anh Lê Trọng K được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Tuy nhiên sau khi con chung Lê Trung A về sống chung với anh K được một thời gian thì cuộc sống của anh K có khó khăn, công việc không ổn định, nợ nần chồng chất. Hiện tại anh K đang sống chung với bố mẹ già đã hết tuổi lao động, bố anh K lại bị bệnh tiểu đường, có lương hưu nhưng đã cắm sổ để trả nợ ngân hàng, anh K lại là lao động chính trong gia đình đi làm để nuôi bố mẹ già, tính chất công việc thường xuyên phải làm ca đêm, không có thời gian đưa đón, dạy dỗ con học hành, như vậy không đảm bảo cho việc chăm sóc và giáo dục cho sự phát triển về thể chất đối với con chung. Chị H có công việc, có nơi ăn chốn ở, sinh hoạt, ổn định, hiện chị đang làm tại Công ty X, lương tháng bình quân trên 11.000.000đồng. Giờ làm việc theo giờ hành chính (ngày 8 tiếng), cháu A còn nhỏ cần có mẹ ở bên để chăm sóc, chị đảm bảo điều kiện và thời gian chăm sóc con tốt hơn anh K.

Để đảm bảo cuộc sống của con chung, chị H đề nghị Tòa án giao con Lê Trung A cho chị trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, chị không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về án phí: Chị H tự nguyện nộp án phí thay đổi nuôi con chung vào ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.

Bị đơn anh Lê Trọng K trình bày:

Anh đồng ý với lời khai của chị H về vấn đề anh chị đã ly hôn tại Tòa án. Tại Quyết định Công nhận thuận tình ly hôn số 79/2019/QĐST - HNGĐ ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh T đã giao con chung của anh và chị H là Lê Trung A, sinh ngày 01/4/2015 cho anh Lê Trọng K được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Hiện con chung Lê Trung A sống với anh từ đó đến nay vẫn phát triển tốt, thời gian chăm sóc cho con chung vẫn đảm bảo không hề sai sót hay ảnh hưởng gì đến sự phát triển tâm sinh lý của con. Từ khi anh nuôi con đến nay chị H không đóng góp cùng anh về vật chất để nuôi con mà một mình anh lo cho con chung, chăm sóc con chung rất tốt. Công việc của anh ổn định, anh làm tại Công ty TNHH xăng dầu HH lương bình quân là 8.000.000 đồng/tháng.

Nay chị H làm đơn khởi kiện thay đổi nuôi con chung anh không nhất trí, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Về án phí: Anh đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Với nội dung trên, tại bản án số 01/2021/HNGĐ-ST ngày 21 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân thành phố S, tỉnh T đã xét xử và quyết định:

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bằng Thị Thu H về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn đối với anh Lê Trọng K.

Giao con chung Lê Trung A, sinh ngày 01/4/2015 cho chị Bằng Thị Thu H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi cháu A đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Bằng Thị Thu H không yêu cầu anh K cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh Lê Trọng K cho đến khi chị H có yêu cầu. Anh Lê Trọng K có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 04 tháng 02 năm 2021 anh Lê Trọng K có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, với lý do: bản án sơ thẩm chưa đánh giá toàn diện khách quan sự việc, con chung của anh đã được chăm sóc và nuôi dậy rất tốt sau khi anh và chị H ly hôn cho tới nay, anh đề nghị được trực tiếp nuôi con chung như quyết định thuận tình ly hôn đã thỏa thuận giữa anh và chị H.

Tại phiên tòa phúc thẩm anh K giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Anh K trình bày: Anh K xác định cháu Lê Trung A từ nhỏ đến nay đều sống cùng anh và bố mẹ đẻ của anh tại TDP TH, phường PC, thành phố S, T Năm 2019 chị H làm đơn xin ly hôn anh, giữa anh và chị H đã thỏa thuận giao con chung cho anh trực tiếp chăm sóc, sau khi ly hôn cháu A vẫn ở ổn định cùng anh, anh có công việc ổn định và thu nhập mỗi tháng hơn tám triệu đồng, giờ làm việc anh có thể tự sắp xếp, đảm bảo đủ thời gian và điều kiện kinh tế để chăm sóc con chung. Từ khi ly hôn với chị H thì cháu A phát triển bình thường, khỏe mạnh, anh đã mua bảo hiểm nhân thọ, người được hưởng bảo hiểm là cháu Lê Trung A từ tháng 6 năm 2020. Từ khi cháu A sinh ra cho đến nay anh và cháu A vẫn ở chung cùng bố mẹ đẻ anh và hiện tại bố mẹ đẻ anh vẫn khỏe mạnh, đủ sức khỏe để hỗ trợ cùng anh chăm sóc cháu. Cháu Lê Trung A là con trai, rất cần sự chăm sóc và giáo dục từ người cha. Anh K cung cấp giấy xác nhận cháu Hiếu đang theo học tại Trường Mầm non VĐ thành phố S về tình hình phát triển thể chất, trí tuệ của cháu A từ khi học tại trường đến nay hoàn toàn bình thường, gia đình đưa đón cháu đảm bảo theo đúng quy định của nhà trường, việc thay đổi môi trường học tập sẽ ảnh hưởng đến quá trình học tập của cháu. Anh K cung cấp hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, xác nhận lương của công ty TNHH xăng dầu HH và 01 bản sao kê tài khoản thể hiện chị Lê Thị Thu H là chị gái của anh K là người thanh toán tiền thuê taxi để anh K và chị H đưa con đi khám bệnh tại Hà Nội, đơn đề nghị xác nhận người phụ thuộc có nội dung xác nhận: Anh Nguyễn Thành T đã đăng ký với Công ty cổ phần Phát triển Nguồn mở và dịch vụ FDS đối với người phụ thuộc là bà Nguyễn Thị H (mẹ đẻ của anh K). Chị H cho rằng anh K nợ nần nhiều, không có khả năng nuôi con và còn phải nuôi dưỡng mẹ già là không có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm xem xét giao con chung Lê Trung A cho anh trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng để cháu ổn định cuộc sống và môi trường học tập. Anh không yêu cầu chị H cấp dưỡng nuôi con.

Chị H trình bày: Hiện chị đã chuyển hộ khẩu về ở cùng bố mẹ đẻ tại xã TH, thị xã P, có nơi ở ổn định, thu nhập khoàng 11triệu đồng/tháng. Chị có đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Lê Trung A vì cháu A còn nhỏ, rất cần mẹ chăm sóc. Chị được biết anh K hiện tại đang nợ nần rất nhiều, không đủ điều kiện kinh tế để chăm sóc con, anh K là lao động chính còn phải nuôi bố mẹ già, chị đề nghị được nuôi con chung là Lê Trung A. Tại phiên tòa chị H không cung cấp các tài liệu chứng nào xác định anh Kcòn nợ nhiều ngoài xã hội Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát phát biểu sự tuân theo pháp luật của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 2 Điều 308, Điều 309; Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Chấp nhận kháng cáo của anh Lê Trọng K. Sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh T. Bác đơn khởi kiện xin thay đổi người trực tiếp nuôi con của chị Bằng Thị Thu H đối với anh Lê Trọng K. Anh K không phải chịu án phí phúc thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1.] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Lê Trọng K làm trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2.] Về nội dung: Xét kháng cáo của anh Lê Trọng K, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Tại Quyết định Công nhận thuận tình ly hôn số 79/2019/QĐST-HNGĐ ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh T chị H và anh K đã thỏa thuận giao con chung là Lê Trung A, sinh ngày 01/4/2015 cho anh Lê Trọng K được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng; chị H và anh K tự thỏa thuận về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo các tài liệu trong hồ sơ và lời khai của anh K và chị H tại phiên tòa phúc thẩm đều xác định, chị H hiện nay ở cùng bố mẹ đẻ tại xã TH, thị xã P còn anh K và cháu A từ khi sinh ra đến nay sống cùng bố mẹ đẻ anh K tại Tổ dân phố TH, phường PC, thành phố S.

Về điều kiện kinh tế: Anh K và chị H đều có việc làm và thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi dưỡng, chăm sóc con chung. Tuy nhiên, hiện cháu Lê Trung A đang sống cùng anh K và học tập tại trường Mầm non VĐ thành phố S (theo Giấy chứng nhận của Hiệu trưởng nhà trường). Chị H trình bày anh K nợ nhiều, đi làm ca không có khả năng chăm sóc con. Tuy nhiên, tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm chị H không có tài liệu nào chứng minh về việc anh K còn nợ nhiều không đủ điều kiện chăm sóc con. Anh K xác định hiện nay anh đã ký hợp đồng làm việc theo giờ hành chính. Mặt khác, anh K đã mua bảo hiểm nhân thọ thể hiện người được hưởng bảo hiểm là cháu Lê Trung A. Điều đó cho thấy anh K là người có trách nhiệm và chăm sóc con tốt. Để đảm bảo về điều kiện phát triển cũng như tránh thay đổi môi trường sống, học tập và tâm lý của cháu A khi bố mẹ đã ly hôn, Hội đồng xét xử có căn cứ chấp nhận kháng cáo của anh Lê Trọng K. Sửa toàn bộ bản án sơ thẩm. Bác yêu cầu xin thay đổi người trực tiếp nuôi con của chị Bằng Thị Thu H đối với anh Lê Trọng K.

Án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên anh K không phải chịu án phí phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị. Hội đồng xét xử không xem xét.

Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh T tại phiên tòa là có căn cứ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308; Điều 309; Điều 147, Điều 148 của Bộ Luật tố tụng dân sự; Chấp nhận đơn kháng cáo của anh Lê Trọng K.

Sửa toàn bộ bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 01/2020/HNGĐ -ST ngày 21 tháng 01 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh T.

Căn cứ các Điều 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 về việc quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bằng Thị Thu H về việc “Thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” đối với anh Lê Trọng K.

2. Về án phí: Chị Bằng Thị Thu H phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí ly hôn sơ thẩm nộp vào Ngân sách Nhà nước được trừ từ tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008074 ngày 09 tháng 11 năm 2020 tại Chi cục Thi hành án thành phố Sô, tỉnh T.

Anh Lê Trọng K không phải chịu án phí ly hôn phúc thẩm, được hoàn lại số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố S , tỉnh T, theo biên lai thu số 0008127 ngày 18 tháng 02 năm 2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn (công việc không ổn định, nợ nần chồng chất) số 04/2021/HNGĐ-PT

Số hiệu:04/2021/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về