Bản án về thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn số 10/2022/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-PT NGÀY 25/04/2022 VỀ THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON CHUNG SAU LY HÔN

Trong ngày 25 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm vụ án thụ lý số: 03/2022/TLPT-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2022 về việc “Thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn”.

Do bản án sơ thẩm số 04/2022/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 15/2022/QĐ-PT ngày 15 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1974; HKTT: Tổ 13, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình; nơi cư trú: Thôn K, xã H, huyện V, thành phố Hải Phòng.

2. Bị đơn: Anh Lê Văn T1, sinh năm 1972; nơi cư trú: Tổ 13, thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

* Nguyên đơn - chị Nguyễn Thị Thanh T trình bày: Tại quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 188/2018/QĐST- HNGĐ ngày 26/11/2018, Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã công nhận thuận tình ly hôn cho anh chị và giao con chung Lê Nguyễn Khánh L, sinh ngày 09/02/2011 cho anh T1 trực tiếp nuôi dưỡng. Nay chị T đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi cháu L. Bởi, chị thấy việc giao con chung cho anh T1 nuôi là không còn hợp lý, do năm 2019 anh T1 kết hôn cùng chị Vũ Thị M, anh T1 lo làm ăn không có thời gian chăm sóc cháu L, cháu L đã về ở cùng chị từ ngày 26/6/2021 đến nay và có đơn xin ở cùng chị. Hiện cháu L đang ở cùng chị tại nhà của chị ở thửa đất số 57 tờ bản đổ số 7, diện tích 100m2 tại thôn K, xã H, huyện V, thành phố Hải Phòng. Chị đang kinh doanh nhà nghỉ mang tên Thanh Trương, thu nhập của chị khoảng 30.000.000 đồng/tháng. Chị T cũng xác nhận tài liệu do anh T1 nộp cho Tòa án là tin nhắn giữa chị và cháu L nhưng do trong lúc đang tắm không ra ngoài được, chị soi Webcam thấy có khách vào nên chị có nhắn tin nhờ cháu L đưa chìa khóa, điều khiển điều hòa giao cho khách chứ không phải chị giao việc ở nhà nghỉ cho cháu L làm.

* Bị đơn - anh Lê Văn T1 trình bày: Theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 188/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã giao cho anh là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Nguyễn Khánh L, sinh ngày 09/02/2011. Nay chị T đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, cháu L có đơn xin ở cùng chị T thì anh không nhất trí. Vì từ ngày Tòa án giải quyết cho anh chị ly hôn, anh vẫn nuôi dạy và chăm sóc cháu L đầy đủ, đảm bảo, anh không để cháu thiếu thốn và cũng không để cháu phải nghỉ học hôm nào. Ngày 26/6/2021, chị T đón cháu L sang chơi tại nhà nghỉ Thanh Trương nơi chị T sinh sống, kinh doanh nhà nghỉ, thì từ đó chị T giữ cháu L ở lại, không cho cháu về với anh nữa. Khi gặp lại cháu L anh thấy cháu L làm tóc xoăn, thái độ cử chỉ của cháu khác hoàn toàn, không còn ngoan ngoãn. Môi trường cháu L ở với chị T không lành mạnh, anh đã cung cấp cho Tòa án tin nhắn giữa chị T và cháu L trong thời gian cháu L ở cùng chị T về việc cháu L phải giao phòng nghỉ cho khách. Mặt khác, từ khi cháu L ở cùng chị T thì chị T thường xuyên gửi cháu ở nhà hàng xóm gần trường để cho cháu ăn nghỉ. Từ nhà anh đến trường khoảng 500 mét, trong khi đó từ nhà nghỉ của chị T đến trường là khoảng 3km. Năm 2019, anh có kết hôn cùng chị Vũ Thị M và vợ chồng chưa có con chung, chị M quan tâm chăm sóc cháu L như con đẻ. Hiện nay anh làm nghề buôn bán loa đài âm thanh, thu nhập khoảng 30.000.000 đồng/tháng.

* Cháu Lê Nguyễn Khánh L trình bày: Sau khi bố mẹ ly hôn thì cháu L ở cùng bố. Đến năm 2019, bố cháu lập gia đình cùng cô Vũ Thị M thì cháu L ở cùng bố và cô M. Hiện cháu L đang học lớp 5A1, trường Tiểu học Thị trấn A, huyện Q, tỉnh Thái Bình. Từ ngày 26/6/2021 cho đến nay, cháu L ở cùng mẹ là Nguyễn Thị Thanh T tại nhà nghỉ Thanh Trương có địa chỉ: thôn K, xã H, huyện V, thành phố Hải Phòng. Nay cháu biết mẹ cháu có đơn đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn thì cháu có nguyện vọng ở mẹ vì từ khi bố cháu lập gia đình cùng cô M thì ít quan tâm đến cháu, còn cháu ở cùng mẹ thì được chăm sóc tốt hơn. Cháu L cũng xác nhận tài liệu do bố cháu nộp cho Tòa án là tin nhắn giữa cháu và mẹ T. Trong thời gian cháu ở cùng bố thì bố cháu cũng nuôi cháu đảm bảo, không bắt cháu phải nghỉ học hôm nào.

* Xác minh tại cơ sở Tổ dân phố số 13 và cán bộ tư pháp Ủy ban nhân dân thị trấn An Bài, thể hiện: Năm 2018, Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã giải quyết cho chị T, anh T1 được ly hôn và giao cho anh T1 trực tiếp nuôi dưỡng con chung Lê Nguyễn Khánh L. Sau khi chị T, anh T1 ly hôn thì cháu L ở cùng anh T1, đến năm 2019, anh T1 lập gia đình thì cháu L ở cùng anh T1 và chị Vũ Thị M. Anh T1, chị M quan tâm, nuôi dưỡng chăm sóc cháu L chu đáo, bảo đảm điều kiện để cháu phát triển bình thường, không có hành động bạo lực với cháu L, không bắt cháu phải nghỉ học, anh T1 có công việc ổn định và có thu nhập. Đối với chị T, cơ sở thôn nắm được hiện nay chị T đang kinh doanh nhà nghỉ tại xã H, huyện V, thành phố Hải Phòng thì môi trường nuôi dạy cháu L không đảm bảo về mọi mặt như anh T1. Nên cơ sở thôn đề nghị Tòa án giữ nguyên quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 188/2018/QĐST-HNGĐ ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, giao cháu L cho anh T1 nuôi dưỡng.

* Xác minh tại Công an xã Hưng Nhân, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng có nội dung: Chị Nguyễn Thị Thanh T có đăng ký tạm trú tại thôn K, xã H, huyện Vo, thành phố Hải Phòng. Chị T đang kinh doanh dịch vụ nhà nghỉ tại nhà nghỉ Thanh Trương, cháu L đang ở cùng chị T tại nhà nghỉ Thanh Trương. Đến tháng 7/2021, Công an xã có nhận được đơn của anh Lê Văn T1 với nội dung “anh T1 có nguyện vọng đưa cháu L về sinh sống tại thị trấn A”. Do tình hình dịch bệnh Covid 19, chị T có làm đơn đăng ký tạm trú cho cháu L ở cùng chị để thuận tiện cho việc đi lại, học tập của cháu L. Nay chị T có đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và cháu L cũng có nguyện vọng ở cùng chị T thì đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định pháp luật để giải quyết.

Bản án sơ thẩm số 04/2022/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã quyết định:

Căn cứ vào khoản 3 Điều 28; khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ Điều 81, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thanh T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, quyền kháng cáo của các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 27 tháng 01 năm 2022, chị Nguyễn Thị Thanh T kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết bao gồm: Kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giao cháu Lê Nguyễn Khánh L cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng.

Tại phiên tòa, chị Nguyễn Thị Thanh T vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo và trình bày: Do anh T1 đã lập gia đình mới nên ít có thời gian chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, cháu L sống cùng vợ mới của anh T1 không hòa hợp. Mặt khác, cháu L có nguyện vọng được ở cùng chị, cháu đang ở độ tuổi dậy thì nên việc mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng con gái vẫn phù hợp hơn. Vì vậy, chị T đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của chị.

Tại phiên tòa, anh T1 trình bày: Anh không đồng ý với yêu cầu khởi kiện, yêu cầu kháng cáo của chị T, vì môi trường sống và làm việc của chị T không lành mạnh, việc cháu L ở với chị T sẽ làm ảnh hưởng đến sự phát triển và học tập của cháu L. Hơn nữa, chị T đang chung sống cùng một người đàn ông khác, không có quan hệ hôn nhân hợp pháp, nên cũng sẽ ảnh hưởng đến sự an toàn của cháu L khi chung sống cùng nhà với chị T và người đàn ông này.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình phát biểu quan điểm: Trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án ở cấp phúc thẩm những người tiến hành tố tụng và các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm: căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật tố tụng dân sự, xử không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thanh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án cũng như thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thanh T làm trong hạn luật định, đã nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm nên được đưa ra xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét yêu cầu kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thanh T thấy: Theo Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 188/2018/QĐST- HNGĐ ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thì cháu Lê Nguyễn Khánh L giao cho anh Lê Văn T1 trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Từ khi cháu L ở với anh T1, cũng như ở cùng với mẹ kế là chị Vũ Thị M thì cháu L vẫn được anh T1, chị M chăm sóc chu đáo cả về điều kiện vật chất lẫn tinh thần, được học tập và phát triển tốt về thể chất. Điều này được thể hiện ở biên bản xác minh tại cơ sở thôn, thị trấn A và sự thừa nhận của chính cháu L - người được nuôi dưỡng. Nay chị T khởi kiện xin thay đổi người trực tiếp nuôi con nhưng không đưa ra được căn cứ nào để cho rằng anh T1 có vi phạm gì trong việc đảm bảo việc nuôi dưỡng con chung, mà ngược lại, anh T1 còn chứng minh được rằng, trong thời gian cháu L ở với chị T thì cháu L nhiều lần phải làm những công việc trong nhà nghỉ như trông coi nhà nghỉ, giao chìa khóa phòng cho khách nghỉ. Mặc dù, cháu L có nguyện vọng được ở với chị T nhưng Hội đồng xét xử xét thấy, môi trường làm việc của chị T và việc cháu L phải thường xuyên tiếp xúc ở môi trường này là không phù hợp cho quá trình phát triển, trưởng thành của cháu L nên Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thanh T, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

[4] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận kháng cáo của chị Nguyễn Thị Thanh T, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 04/2022/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.

1.1. Căn cứ vào khoản 3 Điều 28; khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ Điều 81, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1.2. Tuyên xử: Không chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Thanh T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn.

2. Về án phí phúc thẩm: căn cứ khoản 1 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc chị Nguyễn Thị Thanh T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí phúc thẩm mà chị T đã nộp tại biên lai thu tạm ứng án phí số 0004580 ngày 27 tháng 01 năm 2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình sang thi hành án phí phúc thẩm cho chị T.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 25/4/2022.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

413
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau ly hôn số 10/2022/HNGĐ-PT

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về