Bản án về thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn số 51/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 51/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2021 VỀ THAY ĐỔI NGƯỜI TRỰC TIẾP NUÔI CON CHUNG SAU KHI LY HÔN

Ngày 28 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 126/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021 về “Tranh chấp thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 55/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 15/7/2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị T, sinh năm 1983; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Tr, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

- Bị đơn: Anh Đặng Xuân Th, sinh năm 1982; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Vũ Thị L, sinh năm 1985; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn L, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình (là vợ anh Th).

(Tại phiên tòa có mặt chị T, chị L; anh Th có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu chứng cứ đã xuất trình, nguyên đơn chị Lương Thị T có yêu cầu khởi kiện và trình bày tại phiên tòa như sau:

Chị T và anh Th đăng ký kết hôn năm 2006, vợ chồng có 02 con chung là cháu Đặng Thị Thùy L1, sinh ngày 25/5/2007 và Đặng Thị Lương U, sinh ngày 16/10/2012. Sau khi kết hôn đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn dẫn đến việc vợ chồng phải ly hôn. Tại Quyết định số 211/2017/QĐST-HNGĐ ngày 28/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã công nhận thuận tình ly hôn cho chị và anh Th; về con chung giao cho chị trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đặng Thị Thùy L1; anh Th trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đặng Thị Lương U, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Đến năm 2018 anh Th kết hôn với chị Vũ Thị L và có với nhau 01 con chung. Trong quá trình anh Th nuôi dưỡng cháu U, chị đã nhiều lần đến thăm con nhưng bị anh Th và chị L ngăn cản, không tạo điều kiện cho chị gặp con. Ngày 02/6/2021 anh Th bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ xử phạt 01 năm 08 tháng tù giam về tội “Đánh bạc”. Ngoài ra anh Th đang bị khởi tố, điều tra về tội “Gây rối trật tự công cộng” và đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. Chị T xét thấy hiện tại anh Th không đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung Đặng Thị Lương U. Vì vậy chị T làm đơn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thay đổi người trực tiếp nuôi con, giao cháu Đặng Thị Lương U cho chị nuôi dưỡng cho đến khi cháu U đủ 18 tuổi, chị không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung. Chị T hiện là giáo viên tại Trường Mầm non xã An Cầu, huyện Quỳnh Phụ, có thu nhập là 7.012.000 đồng/tháng.

- Đối với bị đơn là anh Đặng Xuân Th, tại bản tự khai và đơn xin xét xử vắng mặt, anh Th trình bày:

Theo Quyết định số 211/2017/QĐST- HNGĐ ngày 28/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình, Tòa án đã công nhận thuận tình ly hôn cho anh và chị T; về con chung anh và chị T thỏa thuận giao cho chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đặng Thị Thùy L1, sinh ngày 25/5/2007; anh là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đặng Thị Lương U, sinh ngày 16/10/2012, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Tuy nhiên hiện anh Th đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình nên không có điều kiện chăm sóc cháu U. Nay chị T có đơn đề nghị thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn, đề nghị xin được nuôi cháu Đặng Thị Lương U cho đến khi cháu U đủ 18 tuổi, chị T không yêu cầu anh Th cấp dưỡng nuôi con chung thì anh Th cũng đồng ý. Anh đề nghị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ xét xử vắng mặt anh.

- Tại biên bản lấy lời khai của cháu Đặng Thị Lương U ngày 15/7/2021 thể hiện:

Cháu Đặng Thị Lương U, sinh ngày 16/10/2012 là con đẻ của chị Lương Thị T và anh Đặng Xuân Th. Sau khi chị T, anh Th ly hôn thì cháu U ở cùng anh Th và mẹ kế là chị Vũ Thị L. Từ khi anh Th bị bắt và tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình thì cháu U vẫn ở cùng chị Vũ Thị L. Hiện cháu U đang học lớp 4A2, Trường Tiểu học Thị trấn A. Nay chị T đề nghị xin được nuôi cháu Đặng Thị Lương U thì cháu U có nguyện vọng ở với anh Th và chị L.

- Tại biên bản lấy lời khai của chị Vũ Thị L ngày 15/7/2021 và tại phiên tòa thể hiện:

Chị L và anh Th là vợ chồng, có đăng ký kết hôn vào năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q. Quá trình chung sống chị L và anh Th có 01 con chung là cháu Đặng Nguyên Vũ, sinh ngày 18/9/2019 và anh chị cùng chăm sóc cháu Đặng Thị Lương U, là con của anh Th và vợ trước. Từ khi anh Th bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình thì chị là người trực tiếp chăm sóc cháu U. Từ năm 2018 đến nay chị chăm sóc, nuôi dưỡng cháu U chu đáo, chị yêu thương quan tâm coi cháu U như con đẻ. Nay chị T đề nghị xin được nuôi cháu U thì chị không đồng ý vì chị T không đủ điều kiện kinh tế để nuôi cháu U, còn chị có điều kiện nuôi cháu U tốt hơn chị T. Do vậy chị có quan điểm đề nghị Tòa án tiếp tục để chị được nuôi dưỡng cháu U cho đến khi anh Th chấp hành xong hình phạt trở về gia đình, lúc đó tùy anh Th quyết định.

- Tại biên bản xác minh với Ủy ban nhân dân xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình ngày 15/7/2021 thể hiện:

Sau khi anh Th, chị T ly hôn thì cháu U ở cùng anh Th. Năm 2018 anh Th có kết hôn với chị L và có 01 con chung với chị L thì cháu U vẫn ở cùng anh Th, chị L. Từ tháng 01/2021 anh Th bị bắt và bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Thái Bình thì cháu U ở cùng chị L cho đến nay. Nay chị T đề nghị xin được nuôi cháu U, cơ sở thôn đề nghị Tòa án căn cứ vào quy định của pháp luật để giải quyết theo nguyện vọng của chị T, anh Th, giao cháu Đặng Thị Lương U cho chị T nuôi dưỡng.

- Tại phiên toà, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình có quan điểm cho rằng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Nguyên đơn đã chấp hành đúng pháp luật trong quá trình tham gia tố tụng. Bị đơn không tham gia tố tụng có đơn xin xét xử vắng mặt. Về ý kiến giải quyết vụ án, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử chấp nhận yêu cầu của Lương Thị T, giao cho chị Lương Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Đặng Thị Lương U, sinh ngày 16/10/2012 cho đến khi cháu U đủ 18 tuổi. Anh Th không phải phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền nghĩa vụ chăm sóc con chung. Ngoài ra, bị đơn phải nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Đại diện Viện kiểm sát không có yêu cầu, kiến nghị gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn giữa chị Lương Thị T và anh Đặng Xuân Th là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn là anh Đặng Xuân Th hiện đang bị tạm giam nhưng đăng ký hộ khẩu thường trú tại thôn L, xã A, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ thụ lý giải quyết là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự. Do anh Th có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Th.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện việc thu thập chứng cứ, xác minh về điều kiện nuôi dưỡng con chung và địa chỉ của bị đơn, vì vậy Viện kiểm sát tham gia phiên toà là đúng theo Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Chị Lương Thị T và anh Đặng Xuân Th được giải quyết ly hôn theo Quyết định số 211/2017/QĐST- HNGĐ ngày 28/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã công nhận thuận tình ly hôn cho chị T và anh Th; về con chung giao cho chị T là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đặng Thị Thùy L1, sinh ngày 25/5/2007; anh Th là người trực tiếp nuôi dưỡng con chung Đặng Thị Lương U, sinh ngày 16/10/2012, hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Qua xác minh thời gian cháu U ở với anh Th từ năm 2017, đến năm 2018 cháu U ở cùng anh Th và mẹ kế là chị L cho đến nay. Đến tháng 01/2021 anh Đặng Xuân Th bị cơ quan có thẩm quyền bắt giữ và ngày 02/6/2021 anh Th bị Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ xử phạt 01 năm 08 tháng tù giam về tội “Đánh bạc”. Ngoài ra anh Th đang bị khởi tố, điều tra về tội “Gây rối trật tự công cộng” và đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình. Do anh Th bị tạm giam và phải chấp hành án phạt tù, nên không còn đủ điều kiện trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung. Anh Th cũng nhất trí giao con chung Đặng Thị Lương U cho chị T nuôi dưỡng và anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Mặc dù cháu U có nguyện vọng ở với anh Th và chị L nhưng để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho cháu U cần giao cháu U cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp, vì chị T làm nghề giáo viên mầm non tại Trường Mầm non xã An Cầu, huyện Quỳnh Phụ, có thu nhập ổn định, có thời gian và điều kiện chăm sóc cháu U về mọi mặt. Việc chị L không đồng ý giao cháu U cho chị T nuôi dưỡng vì chị T không có đủ điều kiện kinh tế so với chị L là không phù hợp tại thời điểm giải quyết vụ án này, vì từ khi anh Th bị tạm giam cho đến nay thì chị L ngoài chăm sóc cháu U còn phải nuôi cháu Đặng Nguyên Vũ, sinh ngày 18/9/2019 là con chung với anh Th. Chị L có sự yêu thương, muốn chăm sóc cháu U nhưng yêu cầu của chị L không có căn cứ để giải quyết. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống, sinh hoạt và học tập của cháu Đặng Thị Lương U, căn cứ điều 81, điểm b khoản 2 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Lương Thị T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, giao cho chị Lương Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Đặng Thị Lương U cho đến khi cháu U đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị T không yêu cầu nên không xét.

[3] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Lương Thị T nhận chịu án phí dân sự sơ thẩm; các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ điều 81; điểm b khoản 2 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1/ Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của chị Lương Thị T về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, giao cho chị Lương Thị T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cháu Đặng Thị Lương U, sinh ngày 16/10/2012 cho đến khi cháu U đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định pháp luật. Anh Th không phải phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền nghĩa vụ chăm sóc con chung.

2/ Về án phí: Chị Lương Thị T nhận chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Chị T đã nộp đủ số tiền án phí là 300.000 đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004409 ngày 08 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ.

3/ Về Quyền kháng cáo: Chị Lương Thị T, chị Vũ Thị L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (28/7/2021). Anh Đặng Xuân Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án hoặc bản án được niêm yết công khai tại nơi cư trú theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

335
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về thay đổi người trực tiếp nuôi con chung sau khi ly hôn số 51/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:51/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:28/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về