TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÒA BÌNH
BẢN ÁN 44/2022/HS-PT NGÀY 20/09/2022 VỀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 20 tháng 9 năm 2022 tại điểm cầu trung tâm: Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hòa Bình và điểm cầu thành phần: Trại tạm giam - Công an tỉnh Hòa Bình, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 53/2022/TLPT-PT ngày 22/8/2022 đối với bị cáo Bạch Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 24/2022/HS-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
Bị cáo kháng cáo:
Bạch Văn T, sinh ngày 28/5/1993 tại Lương Sơn, Hòa Bình.
Nơi cư trú: Thôn Đ, xã N, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bạch Văn K, sinh năm 1968 và bà Hoàng Thị H, sinh năm 1970; vợ, con: Chưa;
Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 24/12/2013 bị Tòa án nhân dân huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 54 tháng tù về tội Cướp tài sản (Bản án 110/2013/HSST) – chấp hành án xong ngày 05/10/2017.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/10/2021, “có mặt tại điểm cầu thành phần”.
- Bị cáo không có kháng cáo và không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: Đặng Duy Kh, sinh năm 1995, nơi cư trú: Phố Tân Giang, thị trấn Vụ Bản, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình. (Tòa án không triệu tập).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ 00 phút ngày 26/10/2021, Đặng Duy Kh đến quán nước của T rủ T cùng lên Mai Châu, Hòa Bình thăm nhà người thân, T đồng ý. Kh điều khiển xe mô tô BKS 28N1 – 189.37 (của bà Tống Thị Lợi – mẹ Kh) chở T ngồi phía sau đi theo quốc lộ 6 lên Mai Châu. Khi đi đến ngã ba Tòng Đậu, Kh muốn sử dụng ma túy, sẵn trong người có 6.000.000đ nên Kh đã nảy sinh ý định và nói với T về việc tìm mua ma túy để sử dụng, T đồng ý cùng đi với Kh. Sau đó Kh tiếp tục chở T đi lên huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La để tìm mua ma túy.
Khoảng 18 giờ cùng ngày, khi cả hai đi đến địa phận huyện Vân Hồ, đi qua biển báo địa phận huyện Vân Hồ được 5-6km theo hướng Hà Nội – Sơn La, Kh hỏi thăm người đi đường rồi rẽ phải vào một đoạn đường rải cấp phối, đi được 50-60m thì Kh gặp một người phụ nữ dân tộc H’Mông không quen biết và hỏi người này có biết chỗ nào bán ma túy không, qua nói chuyện người phụ nữ đồng ý đi lấy ma túy bán cho Kh. Sau khi vào trong một nhà dân, Kh nói với người phụ nữ muốn mua 6.000.000đ hàng trắng rồi lấy tiền đưa cho người phụ nữ và đứng đợi. Khoảng 15 phút sau, người phụ nữ quay lại đưa cho T một gói màu đen bên trong có chứa ma túy, T đưa gói ma túy lại cho Kh, Kh kiểm tra thì thấy bên trong túi màu đen có chất bột dạng cục màu trắng là ma túy, loại Heroine, ngoài ra còn có thêm 01 viên hồng phiến. Kh lấy ra một ít chất bột màu trắng và đi vào khu vực bếp để sử dụng một mình, số ma túy còn lại chưa sử dụng hết lần này thì Kh gói lại và cất giấu cùng viên hồng phiến vào tay áo bên phải, việc này T không biết. Số ma túy còn lại trong túi nilon màu đen, Kh chia thành 05 phần đựng trong 05 túi nilon nhỏ màu trắng, viền màu đỏ rồi đưa cho T . T dùng băng dính màu đen quấn quanh từng túi ma túy rồi cho tất cả vào 01 chiếc khẩu trang y tế và cất giữ. Sau khi cất giấu ma túy xong, cả hai ra về.
Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, khi Kh điều khiển xe chở T đi về đến Km 110+500 Quốc lộ 6 thuộc địa phận xóm Trọng Phú, xã Phong Phú, huyện Tân Lạc thì bị kiểm tra, bắt quả tang cùng toàn bộ tang vật.
Tại bản kết luận định số 319/KLGĐ – CAT – PC09 ngày 03 tháng 11 năm 2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận: Trong 05 gói chất bột dạng cục màu trắng (Thu giữ của Bạch Văn T ) ký hiệu từ M1-1 đến M1-5 có tổng khối lượng 17,64g là ma túy, loại Heroine; trong gói (thu giữ của Đặng Duy Kh) chất bột dạng cục màu trắng dạng cục ký hiệu M2-2 có khối lượng là 1,09g là ma túy, loại Heroine và 01 viên nén màu hồng ký hiệu M2-1 có khối lượng 0,11g là ma túy, loại Methamphetamine.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 24/2022/HS-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình tuyên bố bị cáo Đặng Duy Kh, Bạch Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Căn cứ điểm n, khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt Đặng Duy Kh 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2021. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, Điều 17, Điều 38, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt Bạch Văn T 06 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 26/10/2021. Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 18/7/2022 bị cáo Bạch Văn T kháng cáo xin giảm hình phạt với lý do: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, bố mẹ già yếu, bị cáo là lao động chính.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và không cung cấp thêm tài liệu, tình tiết nào mới.
Trình bày quan điểm về việc giải quyết vụ án của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hòa Bình:
Về thời hạn kháng cáo và thủ tục thực hiện quyền kháng cáo của bị cáo đã được thực hiện trong thời hạn và đúng hình thức theo quy định;
Về nội dung kháng cáo: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Bạch Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt là không có căn cứ.
Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 24/2022/HS-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố Tụng hình sự. Sau khi xét xử sơ thẩm và trong thời hạn luật định bị cáo Bạch Văn T có kháng cáo hợp lệ được chấp nhận.
[2]. Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo:
2.1. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu trong hồ sơ vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Bạch Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy (tổng khối lượng là 17,64g ma túy, loại Heroine) theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội.
Bị cáo Bạch Văn T là đồng phạm giúp sức tích cực cho bị cáo Đặng Duy Kh, Bị cáo có nhân thân xấu đã bị xử phạt 54 tháng tù về tội Cướp tài sản, theo quy đinh bị cáo đã được xóa án tích, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để cải tạo bản thân trở thành người có ích cho xã hội, mà vẫn cố ý phạm tội nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm minh để cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung.
Khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá, xem xét tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, tổng hợp những tình tiết nêu trên để xử phạt bị cáo 06 năm 06 tháng tù là phù hợp, không quá nghiêm khắc như nội dung kháng cáo của bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào mới cho nên Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo, phù hợp với đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa phúc thẩm.
[3]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật nên Hội đồng xét xử không xét.
[4]. Án phí hình sự phúc thẩm: Do Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Bạch Văn T phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bạch Văn T . Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 24/2022/HS-ST ngày 15/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình, cụ thể:
1. Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; Điều 17, Điều 38, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Bạch Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Xử phạt bị cáo Bạch Văn T 06 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 26/10/2021.
2. Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Bạch Văn T phải chịu 200.000 án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án (20/9 /2022).
Bản án về tàng trữ trái phép chất ma túy số 44/2022/HS-PT
Số hiệu: | 44/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hoà Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về