TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG BÌNH
BẢN ÁN 13/2020/HNGĐ-PT NGÀY 25/08/2020 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON
Ngày 25 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 08/2020/TLPT/HNGĐ ngày 22 tháng 6 năm 2020, về việc: “Ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con” Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số: 30/2020/HNGĐ-ST ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hoá bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1125/2020/QĐ-PT ngày 05/8/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn:Chị Đinh Thị Huyền T; sinh năm 1992 Địa chỉ: Thôn Q, xã X, huyện M, tỉnh Quảng Bình. Có mặt;
2. Bị đơn:Anh Cao Khánh H, sinh năm 1990 Địa chỉ: Thôn P, xã T, huyện M, tỉnh Quảng Bình. Có mặt.
- Người kháng cáo: Anh Cao Khánh H là bị đơn trong vụ án.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo hồ sơ vụ án, lời khai của các đương sự và bảnán sơ thẩm thìnội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Chị Đinh Thị Huyền T trình bày: Chị và anh Cao Khánh H kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã X, huyện M. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc sau đó thì xảy ra mâu thuẫn, hai vợ chồng thường xuyên cãi vã, không hợp tính tình, anh H thường xuyên đánh đập chị T, có những lần đánh đập dã man, may có hàng xóm láng giềng đến giúp chị mới chạy thoát được, đời sống chung không thể kéo dài, chị đã về nhà bố mẹ để sinh sống. Hiện tại chị cũng không còn tình cảm vợ chồng với anh H nữa. Nhận thấy vợ chồng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị làm đơn yêu cầu được ly hôn với anh H.
Bị đơn anhCao Khánh H trình bày:Quá trình kết hôn đúng như chị T trình bày.
Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, hai vợ chồng cũng không có mâu thuẫn gì chỉ có cãi vã, xích mích nhỏ không đáng kể. Hiện tại anh vẫn còn tình cảm vợ chồng với chị T, mong chị T quay lại để đoàn tụ gia đình, nuôi dạy con cái.
- Về con chung: Chị T và anh H thống nhất trình bày, vợ chồng có 02 con chung là cháu Cao Hải Đ, sinh ngày 08/02/2016 và Cao Nữ A, sinh ngày 13/02/2018, hiện tại hai con đang ở với chị T. Nếu ly hôn, nguyện vọng của chị T là xin được nuôi dưỡng hai con và không yêu cầu anh H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung.
Tại phiên hòa giải ngày 13/01/2020, anh H trình bày không muốn ly hôn vì vẫn còn tình cảm với chị T.Do không muốn ly hôn nên anh H không muốn giải quyết về con chung. Tại phiên tòa sơ thẩm, anh H trình bày nếu ly hôn thì anh muốn được giao cháu Cao Hải Đ cho anh nuôi dưỡng, còn cháu Cao Nữ A thì giao cho chị T nuôi dưỡng.
- Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anhH thống nhất khai không có tài sản chung và không có nợ chung, không yêu cầu toà án giải quyết.
Tại bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 30/2020/HNGĐ-ST ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hoá, tỉnh Quảng Bình đã ra quyết định: Căn cứ vào Điều 56, 57, 58 của Luật Hôn nhân và gia đình xử:
1. Về quan hệ hôn nhân:Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị Đinh Thị Huyền T và anh Cao Khánh H.
2. Về con chung:Xử giao cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung là cháu Cao Hải Đ và Cao Nữ A, anh H không phải cấp dưỡng nuôi con cùng chị T vì chị T không yêu cầu cấp dưỡng do chị có đủ khả năng và điều kiện nuôi con.
Không ai được ngăn cản việc đi lại chăm sóc con chung, khi cần thiết vì quyền lợi của con, một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.
3. Về tài sản chung và khoản vay chung:Không có.
Ngoài ra bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.
Ngày 15/5/2020, anh Cao Khánh H kháng cáo bản án dân sự sơ thẩm số 30/2020/HNGĐ-ST ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hoá về phần con chung anh H đề nghị được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu Cao Hải Đ.
Tại phiên toà phúc thẩm: Anh H giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của mình sửa bản án sơ thẩm giao cháuCao Hải Đ cho anh H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.
* Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Về tố tụng: Người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự tại Tòa án cấp phúc thẩm.
- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ khoản 1 Điều 148; khoản 1 Điều 308, Điều 313 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí về lệ phí toà án, để xử: Chấp nhận kháng cáo của anh Cao Khánh H, sửa án sơ thẩm: Về quan hệ con chung: Giao con chung là cháu Cao Hải Đ, sinh ngày 08/02/2016 cho anh H được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giao cháu Cao Nữ A, sinh ngày 13/02/2018 cho chị T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con. Do kháng cáo của anhCao Khánh Hđược chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, cũng như thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Các vấn đề về quyền khởi kiện, phạm vi khởi kiện, thẩm quyền giải quyết, người tham gia tố tụng và người tiến hành tố tụng, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét, giải quyết và thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Về quan hệ hôn nhân các bên đương sự không có kháng cáo, Viện kiểm sát không có kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Anh Cao Khánh H kháng cáo về quan hệ con chung, đơn kháng cáo trong hạn luật định, nội dung, hình thức đúng quy định, vụ án được xét xử phúc thẩm theo quy định của Bộ luật dân sự 2015.
[2] Về nội dung:
Xét kháng cáo của anh Cao Khánh H đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Cao Hải Đ cho anh trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, thấy rằng: Anh H và chị T đều có công việc ổn định, tuy anh H lại hay phải đi làm xa nhưng anh vẫn đảm bảo được điều kiện để chăm sóc con tốt (anh có thu nhập hàng tháng hơn 10 triệu đồng) và có chỗ ở ổn định, hiện nay anh đang công tác tại thành phố Đồng Hới có đủ điều kiện để nuôi con. Mặt khác xét thấy án sơ thẩm, khi giao hai con cho chị T nuôi dưỡng vì chị T không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con của anh H đối với các con chung. Đối với chị T,với công việc là giáo viên có mức thu nhập hơn 12 triệu đồng 1 tháng, phải nuôi cả hai con nhỏ là một gánh nặng đối với chị T. Hơn nữa, chị T phải đi làm xa không phải thường xuyên ở nhà, nơi công tác và nhà ở của chị T có khoảng cách khoảng 50 km, việc chăm sóc con cái chị phải nhờ ông bà ngoại. Điều này ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển cũng như quyền lợi của hai cháu.Do đó, có đủ cơ sở để chấp nhận kháng cáo của anh H, sửa một phần bản án sơ thẩm.
[3] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của anh H được chấp nhận nên anh H không phảichịu án phí phúc thẩm dân sự.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệulực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 2 Điều 308, Điều 309, khoản 2 Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và khoản 2 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 3 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí, tuyênxử:
1. Chấp nhận kháng cáo của anh Cao Khánh H, sửa bản án sơ thẩm số 30/2019/HNGĐ-ST ngày 07/5/2020 của Tòa án nhân dân huyện Minh Hoá.
Về quan hệ con chung:Giao con chung cháu Cao Hải Đ,sinh ngày 08/2/2016, cho anh Cao Khánh H trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giao cháu Cao Nữ A, sinh ngày 13/02/2018 cho chị Đinh Thị Huyền T trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng. Không ai phải cấp dưỡng nuôi con.
Không ai được ngăn cản việc chăm sóc và giáo dục con chung, khi cần thiết vì quyền lợi của con thì một trong hai bên có quyền làm đơn yêu cầu Toà án thay đổi người trực tiếp nuôi con.
2. Về án phí phúc thẩm: Anh Cao Khánh H không phải chịu án phí phúc thẩm. Hoàn trả cho anh Cao Khánh H số tiền 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số AA/2017/0004233 ngày 20/5/2020 tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Minh Hóa.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (25/8/2020).
Bản án về ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con số 13/2020/HNGĐ-PT
Số hiệu: | 13/2020/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Bình |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/08/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về