Bản án về ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con số 11/2023/HNGĐ-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 11/2023/HNGĐ-PT NGÀY 16/06/2023 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP QUYỀN NUÔI CON

Ngày 16 tháng 6 năm 2023 Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 08/2023/TLPT-HNGĐ ngày 24 tháng 3 năm 2023 về việc Ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con chung.

Do bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 06/2023/HNGĐ-ST ngày 16 tháng 2 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 10/2023/QĐXX-PT ngày 15 tháng 5 năm 2023 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị H, sinh năm 1991; Trú tại: Xóm T, xã L, huyện V, tỉnh Thái Nguyên.

2. Bị đơn: Anh Ma Đình D, sinh năm 1986;

Trú tại: Xóm L, xã T, huyện V, tỉnh Thái Nguyên.

(Các đương sự có mặt tại phiên tòa)

3. Người kháng cáo: Anh Ma Đình D là bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung bản án sơ thẩm nguyên đơn là chị Hoàng Thị H trình bày:

Chị và anh Ma Đình D tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn với nhau năm 2014 tại UBND xã T, huyện V, tỉnh Thái Nguyên. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu hòa hợp, hạnh phúc. Năm 2016 hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh D không tu chí làm ăn, không quan tâm thương yêu chăm sóc vợ con.

Gia đình nhà anh D nợ nần nhiều, bản thân chị không giúp được gì nên nhiều lần bố chồng chị xúc phạm và đuổi chị ra khỏi nhà. Do mâu thuẫn vợ chồng, chị đã phải ra thuê trọ, sau đó chuyển vào tập thể nhà trường ở từ 10/02/2022, vợ chồng cũng ly thân từ đó đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh D.

Quá trình chung sống anh chị có 02 con chung: Cháu Ma Hoàng Bích H1, sinh ngày 21/7/2015 và cháu Ma Bích D1, sinh ngày 24/7/2019. Do cháu H1 hiện đang ở với chị ở trường tiểu học L1 nên chị đề nghị giải quyết cho mỗi người nuôi một con. Chị xin được trực tiếp nuôi cháu Ma Hoàng Bích H1 và đồng ý giao cháu Ma Bích D1 cho anh D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Không yêu cầu anh D đóng góp cấp dưỡng nuôi cháu H1.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Ma Đình D trình bày: Anh và chị H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn năm 2014 tại UBND xã T, huyện V, tỉnh Thái Nguyên. Ban đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc không có mâu thuẫn gì, sau một thời gian chung sống hai vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn do chị H nghi ngờ anh có quan hệ ngoại tình, chị H không chăm lo đến đời sống gia đình, đánh con cái. Năm 2017 chị H làm đơn xin ly hôn gửi đến Tòa án, sau đó do con nhỏ chị H rút đơn vợ chồng về chung sống với nhau nhưng không được hạnh phúc. Tháng 6/2022 chị H mang theo cháu H1 vào trường Tiểu học L1 ở và ly thân từ đó đến nay. Nay chị H tiếp tục làm đơn xin ly hôn anh nhất trí ly hôn theo yêu cầu của chị H.

Về con chung: Như chị H đã khai là đúng. Anh đề nghị được nuôi cả hai con vì lý do chị H khi còn chung sống không quan tâm đến con cái, trước mặt anh chị H còn đánh đập con nên anh không yên tâm giao con cho chị H nuôi. Về cấp dưỡng nuôi con chung không yêu cầu chị Hạ cấp d nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của con trên 7 tuổi: Tại bản tự khai tại Tòa án, cháu Ma Hoàng Bích H1, sinh ngày 21/7/2015 trình bày: Hiện nay bố mẹ cháu xin ly hôn, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ, đề nghị Tòa án xem xét nguyện vọng của cháu.

Với nội dung trên, tại bản án số 06/2023/HNGĐ-ST ngày 16 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên đã xét xử và quyết định: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hoàng Thị H.

1. Về quan hệ vợ chồng: Chị Hoàng Thị H và anh Ma Đình D nhất trí thuận tình ly hôn.

2.Về con chung: Giao cháu Ma Hoàng Bích H1, sinh ngày 21/7/2015 cho chị Hoàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; giao cháu Ma Bích D1, sinh ngày 24/7/2019 cho anh Ma Đình D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi mỗi cháu đủ 18 tuổi hoặc có sự kiện khác.

Tạm hoãn việc đóng góp cấp dưỡng nuôi con cho chị H và anh D do hai bên không yêu cầu. Chị H và anh D vẫn được quyền đi lại thăm và chăm sóc con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không giải quyết.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 28/02/2023 bị đơn anh Ma Đình D có đơn kháng cáo đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xem xét giải quyết để anh được nuôi cả hai con chung.

Tại phiên tòa phúc thẩm, anh D giữ nguyên nội dung kháng cáo. Chị H không nhất trí kháng cáo của anh D.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát phát biểu sự tuân theo pháp luật của thẩm phán chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử từ khi thụ lý vụ án đến trước khi nghị án đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn anh Ma Đình D. Giữ nguyên phần quyết định về con chung tại bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 06/2023/HNGĐ-ST ngày 16 tháng 2 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử nhận định:

[1.] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của anh Ma Đình D làm trong hạn luật định, đã nộp dự phí kháng cáo nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2.] Về nội dung: Xét kháng cáo của anh D, Hội đồng xét xử thấy rằng: Anh D và chị H trong quá trình chung sống có hai con chung là cháu Ma Hoàng Bích H1, sinh ngày 21/7/2015 và cháu Ma Bích D1, sinh ngày 24/7/2019. Căn cứ các tiều liệu, chứng cứ trong hồ sơ và lời trình bày của các đương sự tại phiên toà thể hiện chị H hiện đang là cán bộ công tác tại Trường tiểu học L1, huyện V, có nơi ở và thu nhập ổn định. Như vậy, chị H có đủ điều kiện chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Toà án cấp sơ thẩm đã giao cháu H1 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, còn cháu D1 giao cho anh D trực tiếp nuôi là có căn cứ, điều đó cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu H1 mong muốn được ở với chị H. Tại phiên toà phúc thẩm anh D không có căn cứ nào chứng minh chị H không đủ điều kiện để chăm sóc nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, yêu cầu kháng cáo của anh D đề nghị được nuôi cả hai con, Hội đồng xét xử không có căn cứ chấp nhận.

Quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Nguyên tại phiên tòa là có căn cứ.

Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo của anh D không được chấp nhận nên anh D phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 308, Điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

1. Không chấp nhận đơn kháng cáo của anh Ma Đình D.

Giữ nguyên phần quyết định về con chung của bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 06/2023/HNGĐ -ST ngày 16 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Anh Ma Đình D phải chịu 300.000 đồng án phí phúc thẩm theo biên lai thu số 0003463 ngày 02/3/2023 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.

Các quyết định khác của bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm số 06/2023/HNGĐ -ST ngày 16 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp quyền nuôi con số 11/2023/HNGĐ-PT

Số hiệu:11/2023/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/06/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về