TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LÂM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 61/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/03/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 04 tháng 03 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 457/2020/TLST – HNGĐ ngày 20/11/2020 về tranh chấp: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 05/01/2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị DTMA, sinh năm 1988; HKTT: Thôn L, xã K, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội; nơi ở: Thôn Đ, xã Đ, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. “ Có mặt”.
- Bị đơn: Anh NKT, sinh năm 1985; HKTT và nơi ở: Thôn LQ, xã K, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. “ Vắng mặt”.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, các lời khai tại Tòa án và tại phiên tòa, chị DTMA trình bày:
Về quan hệ vợ chồng: Chị DTMA và anh NKT kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 16/12/2008 tại UBND xã Kim Sơn, Gia Lâm, Hà Nội, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, không bị ai ép buộc.
Sau khi vợ chồng kết hôn thì xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là chồng có quan hệ tình cảm với người con gái khác. Có bắt gặp anh NKT nhắn tin với người con gái khác và một lần bắt gặp anh NKT ăn sáng cùng người đó. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã và có bị anh NKT đánh nhiều lần nhưng chưa đến mức đi viện. Gia đình hai bên đã khuyên bảo nhiều lần nhưng vợ chồng vẫn xảy ra mâu thuẫn, không hàn gắn được. Vợ chồng ly thân nhau nhiều lần. Hai người quay lại ở với nhau được thời gian ngắn thì lại mâu thuẫn rồi ly thân. Từ tháng 6/2019 vợ chồng đã cắt đứt hẳn quan hệ tình cảm, sinh lý và ly thân nhau từ đó đến nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng đã hết, đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Về con chung: Có 02 con chung là cháu Nguyễn Minh Đức, sinh ngày 28/8/2009 và cháu Nguyễn Anh Thư, sinh ngày 07/8/2012. Khi ly hôn chị có nguyện vọng nuôi hai cháu. Chị không yêu cầu anh NKT cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung vợ chồng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh NKT trình bày:
Về thời gian, hoàn cảnh kết hôn, con chung như Chị DTMA trình bày là đúng. Sau khi kết hôn hai người sống chung bình thường được vài năm thì bắt đầu xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã và xô xát. Gia đình hai bên đã khuyên bảo nhiều lần nhưng vợ chồng vẫn xảy ra mâu thuẫn. Vợ chồng ly thân nhau nhiều lần, vợ bỏ về nhà bố mẹ đẻ. Vợ chồng quay lại ở với nhau được thời gian ngắn thì lại mâu thuẫn rồi ly thân. Từ tháng 6/2019 vợ chồng đã cắt đứt hẳn quan hệ tình cảm, sinh lý và ly thân nhau từ đó đến nay. Vợ mang theo hai con về nhà ngoại. Vợ chồng không thể hàn gắn được. Nay anh xác định không còn tình cảm với chị DTMA. Đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Minh Đức, sinh ngày 28/8/2009 và cháu Nguyễn Anh Thư, sinh ngày 07/8/2012. Khi ly hôn anh NKT có nguyện vọng nuôi một cháu. Không bên nào phải cấp dưỡng.
Về tài sản chung vợ chồng: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gia Lâm kiểm sát việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; đương sự chấp hành đúng quy định của pháp luật; bị đơn không chấp hành quy định pháp luật. Về đường lối giải quyết vụ án: Đề nghị Tòa án giải quyết cho chị DTMA được ly hôn với anh NKT; về con chung: Giao Giao cháu Nguyễn Minh Đức, sinh ngày 28/8/2009 cho anh NKT nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Anh Thư, sinh ngày 07/8/2012 cho chị DTMA nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh, chị cho đến khi các cháu 18 tuổi hoặc khi có yêu cầu thay đổi khác; về tài sản chung: Không phải giải quyết; về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Về tố tụng: Về thẩm quyền giải quyết vụ án do bị đơn có nơi cư trú tại xã Kim Sơn, huyện Gia Lâm, Thành phố Hà Nội. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên Tòa án nhân dân huyện Gia Lâm thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.
[2]. Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân vợ chồng bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung. Vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã và xô xát không còn thương yêu, tôn trọng nhau. Vợ chồng sống ly thân nhau nhiều lần. Từ tháng 6/2019 vợ chồng đã cắt đứt hẳn quan hệ tình cảm, sinh lý và ly thân nhau từ đó đến nay, cả hai anh chị đều nhất trí ly hôn. Vì vậy, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu ly hôn anh NKT của chị DTMA là có căn cứ phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[3]. Về con chung vợ chồng:
Xét nguyện vọng của hai cháu xin ở với mẹ, hơn nữa hai cháu ở cùng mẹ ổn định; mặt khác chị DTMA đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho các cháu như nuôi dưỡng, giáo dục và học tập nên nguyện vọng nuôi hai con của chị DTMA là có căn cứ. Chị DTMA không yêu cầu anh NKT cấp dưỡng nuôi con chung nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung đối với anh NKT.
[4]. Về tài sản chung vợ chồng: Anh chị không yêu cầu nên Tòa án không phải giải quyết.
[5]. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị DTMA phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các điều 28, 35, 39, khoản 4 Điều 147, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ các điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị DTMA được ly hôn với Anh NKT.
2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Minh Đức, sinh ngày 28/8/2009 và cháu Nguyễn Anh Thư, sinh ngày 07/8/2012 cho chị DTMA nuôi dưỡng. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh NKT cho đến khi các cháu 18 tuổi hoặc khi có yêu cầu thay đổi khác.
Anh NKT có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung vợ chồng: Không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Minh Anh phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí theo Biên lai số AA/2010/0005659 ngày 20/11/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lâm, nay chuyển thành án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị DTMA có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh NKT có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc ngày niêm yết Bản án.
Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 61/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 61/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Gia Lâm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 04/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về