TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN YÊN, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 33/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/07/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 23 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 40/2021/TLST-HNGĐ ngày 02- 3-2021 về việc: “Ly hôn và tranh chấp nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 21-6-2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 20/2021/QĐST-HNGĐ ngày 07-7-2021, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Triệu Văn G; sinh năm 1983.
Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện VY, tỉnh Yên Bái; có mặt tại phiên tòa.
- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1987.
Địa chỉ: Thôn N, xã H, huyện VY, tỉnh Yên Bái; vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện ngày 02 tháng 3 năm 2021 và những lời khai tiếp theo cũng như tại phiên tòa nguyên đơn anh Triệu Văn G trình bày:
Anh và chị Nguyễn Thị T trước khi kết hôn có tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 24-10-2005, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện VY, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 01 năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do năm 2012 anh G cho chị T đi làm ăn xa dẫn đến vợ chồng ít có thời gian quan tâm chăm sóc đến nhau. Sau đó anh không đồng ý cho chị T đi làm ăn xa nhưng chị T vẫn đi làm xa dẫn đến bất đồng quan điểm sống và sảy ra mâu thuẫn. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2013 đến nay không ai quan tâm đến ai. Nay anh G xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị T nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Về con chung: Anh G và chị T có 01 con chung Triệu Thị Thanh N, sinh ngày 20-01-2010, cháu N hiện đang do anh G trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn anh G có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung: Anh G không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Anh G không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Sau khi thụ lý vụ án Tòa án nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái đã nhiều lần báo gọi, gửi thông báo phiên hòa giải và trong quá trình giải quyết vụ án có gửi các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật cho chị Nguyễn Thị T nhưng chị T không có mặt theo yêu cầu của Tòa án.
Tại Biên bản lấy lời khai ngày 16-6-2021 (Bút lục số 25) ông Nguyễn Đức T là bố nuôi của chị T cho biết: Chị Nguyễn Thị T là con nuôi của gia đình ông và sinh sống cùng gia đình ông từ nhỏ cho đến khi đi lấy chồng là anh Triệu Văn G và chuyển về thôn N, xã H, huyện VY sinh sống. Chị T và anh G trước khi kết hôn có được tìm hiểu và tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 24-10-2005 tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện VY, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn chị T và anh G chung sống hạnh phúc đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do chị T thường đi làm ăn xa ít về thăm gia đình, chồng con và cũng ít về thăm gia đình ông. Anh G khởi kiện yêu cầu ly hôn chị T, quá trình giải quyết vụ án Toà án có tống đạt các văn bản tố tụng cho chị T qua gia đình ông T, ông T có gọi điện báo chị T về, chị T đã biết nội dung việc anh G khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn nhưng chị T không về, chị T có nói đề nghị Toà án xét xử vắng mặt và nhất trí với nguyện vọng Ly hôn của anh G.
Về con chung: Chị T và anh G có một con chung Triệu Thị Thanh N, sinh ngày 20 tháng 01 năm 2010, cháu N hiện đang ở cùng anh G do anh G trực tiếp chăm sóc, qua trao đổi với ông T chị T nhất trí để anh G trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Ông T đề nghị Toà án giải quyết theo nguyện vọng của anh G.
Tại phiên tòa: Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện VY, tỉnh Yên Bái phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của các đương sự được đảm bảo đúng quy định của pháp luật.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56; các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình: Xử cho anh Triệu Văn G được ly hôn chị Nguyễn Thị T; Giao cháu Triệu Thị Thanh N sinh ngày 20 tháng 01 năm 2010 cho anh G trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; chị T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền thăm nom đối với con chung, không ai được ngăn cản; Về tài sản chung, nợ chung: Anh G không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Nghị quyết 326 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc anh G phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đúng, đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Chị Nguyễn Thị T là bị đơn được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt chị Nguyễn Thị T.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Anh G và chị T trước khi kết hôn có tìm hiểu và tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 24-10-2005, tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện VY, tỉnh Yên Bái. Việc kết hôn đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật Hôn nhân và Gia đình. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh G và chị T là hợp pháp.
[3] Về mâu thuẫn vợ chồng, Hội đồng xét xử thấy: Quá trình chung sống anh G và chị T tính cách không phù hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không hiểu nhau. Vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi từ năm 2013 đến nay. Chị T thường đi làm ăn xa ít có thời gian quan tâm, chăm sóc gia đình. Từ đó vợ chồng không còn quan tâm, liên lạc gì với nhau nữa. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã báo gọi chị T nhiều lần nhưng chị T đều vắng mặt. Do đó Tòa án không tiến hành hòa giải được. Qua xác minh tại gia đình chị T thì mâu thuẫn giữa chị T và anh G là đúng, anh G và chị T đã sống ly thân mỗi người một nơi, không ai quan tâm đến ai, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Từ những phân tích trên thấy yêu cầu ly hôn của anh G là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Triệu Văn G.
[4] Về con chung: Anh G và chị T có 01 con chung là Triệu Thị Thanh N, sinh ngày 20-01-2010. Khi ly hôn, anh G có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cầu chị T phải cấp dưỡng nuôi con. Hội đồng xét xử thấy: Cháu N hiện đang do anh G trực tiếp nuôi dưỡng nên cần giao cháu N cho anh G tiếp tục nuôi dưỡng và cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu N muốn được ở cùng anh G. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, cần giao con chung là Triệu Thị Thanh N, sinh ngày 20-01-2010 cho anh G trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình. Chị T không phải cấp dưỡng nuôi con.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Anh G không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
[6] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.
[7] Về án phí: Anh Triệu Văn G là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cư khoản2 Điều 227; Điều 228, Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Áp dụng khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Triệu Văn G được ly hôn chị Nguyễn Thị T.
2. Về con chung: Anh Triệu Văn G được trực tiếp trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là Triệu Thị Thanh N, sinh ngày 20-01-2010 cho đến khi cháu N đủ 18 tuổi hoặc khi có thay đổi. Chị Nguyễn Thị T không phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Anh Triệu Văn G phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và được trừ vào số tiền 300.000đồng tạm ứng án phí anh G đã nộp theo biên lai số AA/2017/0005457 ngày 02-3-2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái. Xác nhận anh G đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.
Chị Nguyễn Thị T không phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Anh Triệu Văn G có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Chị Nguyễn Thị T vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 33/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 33/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 23/07/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về