Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 24/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN EAKAR, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 24/2021/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 23 tháng 8 năm 2021 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện EaKar xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 117/2021/TLST- HNGĐ ngày 26 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 28/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 16 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện EaKar, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị D, sinh năm 1990. Địa chỉ: Thôn T, xã I, huyện I, tỉnh Gia Lai. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Ông Lý Văn T, sinh năm 1993. Địa chỉ: Thôn H, xã C, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện ngày 18/3/2021, quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Phạm Thị D trình bày:

Bà Phạm Thị D và ông Lý Văn T có đăng ký kết hôn tại UBND xã Cư Huê, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 15/6/2017 trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc.

Sau khi kết hôn, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, không có tiếng nói chung trong cuộc sống nên mâu thuẫn vợ chống ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được và đã sống ly thân từ ngày 20/10/2019 đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, không thể chung sống cùng nhau được nữa, bà D làm đơn khởi kiện yêu cầu Toà án nhân dân huyện EaKar giải quyết cho bà D được ly hôn ông Lý Văn T.

Về con chung: Trong quá trình chung sống, bà D và ông T có 01 con chung là Lý Việt A, sinh ngày 26/11/2017. Con chung hiện nay do ông T trực tiếp nuôi dưỡng, chắm sóc và giáo dục nên sau ly hôn bà D có nguyện vọng giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) và bà D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà D không yêu cầu Toà án giải quyết.

Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện EaKar đã mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, ông T đã được triệu tập hợp lệ nhưng không có mặt tại Toà án để làm việc nên không tiến hành hoà giải được. Vì vậy, Tòa án nhân dân huyện EaKar quyết định đưa vụ án ra xét xử.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Bị đơn ông Lý Văn T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ nhưng ông T vẫn vắng mặt tại phiên Tòa. Vì vậy, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T là đúng quy định của pháp luật.

- Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật, thẩm quyền giải quyết, tư cách tham gia tố tụng của các đương sự trong vụ án. Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong quá trình giải quyết vụ án cũng như Hội đồng xét xử (HĐXX), thư ký tại phiên tòa đảm bảo quy định về trình tự thủ tục tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đề nghị HĐXX tuyên xử cho bà Phạm Thị D được ly hôn ông Lý Văn T. Giao con chung Lý Việt A, sinh ngày 26/11/2017 cho ông Lý Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi), ông T không yêu cầu bà D phải cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: Bà D, ông T không yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Bà Phạm Thị D khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Lý Văn T.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS, đây là yêu cầu “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn hiện đang cư trú tại huyện EaKar, căn cứ điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng Dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về hôn nhân: Bà Phạm Thị D và ông Lý Văn T có đăng ký kết hôn tại UBND xã Cư Huê, huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk vào ngày 15/6/2017 trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc. Hôn nhân của ông bà là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống, 2 kng có tiếng nói chung trong cuộc sống, vợ chồng mỗi người sống một nơi, ông T sống ở xã Cư Huê huyện EaKar, tỉnh Đắk Lắk, bà D sống tại xã Ia Hrung, huyện IaGrai, tỉnh Gia Lai nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng không thể giải quyết được và đã sống ly thân từ ngày 20/10/2019 đến nay. Nay bà Doan thấy tình cảm giữa bà Doan và ông T không còn, không thể chung sông cùng nhau được nữa nên bà Doan có nguyện vọng được ly hôn ông Lý Văn T. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần động viên bà D về đoàn tụ cùng ông T để cùng nhau nuôi dạy con chung nhưng bà Doan vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn ông Lý Văn T. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa bà Phạm Thị D và ông Lý Văn T mâu thuẫn đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử cần xử cho bà Phạm Thị D được ly hôn ông Lý Văn T.

[3] Về con chung: Bà D và ông T có 01 con chung là Lý Việt A, sinh ngày 26/11/2017. Hai con chung hiện nay đều do ông T trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc, giáo dục. Sau ly hôn, bà Doan có nguyện vọng được giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) và bà D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, việc giao con cho ai nuôi cần phải xem xét mọi mặt và quyền lợi của con chưa thành niên. Từ khi còn sống chung cho đến khi hai vợ chồng sống ly thân, Thái là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc các con. Hiện nay con chung đang học tập và sống ổn định cùng ông T, vẫn bảo đảm sự phát triển đầy đủ về thể chất cũng như tinh thần cho con chung, bà D cũng có nguyện vọng giao con chung cho ông T trực tiếp nuôi dưỡng. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con, nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 của LHNGĐ, HĐXX cần giao con chung Lý Việt A, sinh ngày 26/11/2017 cho ông Lý Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi) là phù hợp với quy định của pháp luật. Ông Lý Văn T không yêu cầu bà D phải cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà D, ông T không yêu cầu Toà án giải quyết.

[5] Về án phí: Bà Phạm Thị D phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 28, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228, Điều 266; Điều 271, Điều 273 Bộ Luật tố tụng dân sự; Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 6, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phạm Thị D.

- Quan hệ về hôn nhân: Xử cho bà Phạm Thị D được ly hôn ông Lý Văn T.

- Về con chung: Giao con chung Lý Việt A, sinh ngày 26/11/2017 cho ông Lý Văn T được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi con thành 3 niên (đủ 18 tuổi).

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con; không ai được cản trở người đó thực hiện quyền này. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Toà án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

- Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Lý Văn T không yêu cầu bà Phạm Thị D phải cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà Phạm Thị D và ông Lý Văn T không yêu cầu Toà án giải quyết.

2. Về án phí: Bà Phạm Thị D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào 300.000 đồng bà Doan đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: AA/2019/0016878 ngày 22/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện EaKar.

3. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án Hôn nhân gia đình sơ thẩm trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con số 24/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ea Kar - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:23/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về