Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 91/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BÁN ÁN 91/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 16 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 191/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 96/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lâm Thị Kim H, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp T, xã T , huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

Bị đơn: Ông Lý Bình D, sinh năm 1980; địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 15/6/2022 và các lời khai trong quá trình giải qu yết vụ án nguyên đơn bà Lâm Thị Kim H trình bày:

Vào năm năm 2003, bà Lâm Thị Kim H và ông Lý Bình D kết hôn với nhau và có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã Tân Hưng, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng đăng ký vào ngày 01/9/2011. Sau kết hôn bà H và ông D chung sống hạnh phúc được một thời gian, tuy nhiên đến năm 2017 thì xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, vợ chồng thường xuyên cãi nhau do ông D có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, không quan tâm chăm sóc gia đình. Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên bà và ông D sống ly thân với nhau từ đó đến nay. T ro ng q uá trình chung sống bà và ông D có 05 con chung là Lý Minh V, sinh ngày 31/12/2004; Lý Minh L, sinh ngày 28/11/2006; Lý Thị Mỹ N, sinh ngày 01/6/2009; Lý Hoàng T, sinh ngày 01/11/2015; Lý Thanh S, sinh ngày 19/7/2018, các người con chung hiện đang sống với bà. Về tài sản chung và nợ chung không có.

Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 12 tháng 9 năm 2022, bà Lâm Thị Kim H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Về hôn nhân xin được ly hôn với ông Lý Bình D; về con chung: Xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là các cháu Lý Minh V, sinh ngày 31/12/2004; Lý Minh L, sinh ngày 28/11/2006; Lý Thị Mỹ N, sinh ngày 01/6/2009; Lý Hoàng T, sinh ngày 01/11/2015; Lý Thanh S, sinh ngày 19/7/2018 đến khi thành niên, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn ông Lý Bình D: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông D, nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông D 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông D để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

- Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân  huyện Long Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền; việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đ úng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử; nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghi ̣án đã chấp hành đúng các quy điṇh của pháp luậṭ vê tố tụng dân sự riêng bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, giải quyết:

+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của b à Lâm Thị Kim H.

+ Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng: Giao các con chung là cháu Lý Minh V, sinh ngày 31/12/2004; Lý Minh L, sinh ngày 28/11/2006; Lý Thị Mỹ N, sinh ngày 01/6/2009; Lý Hoàng T, sinh ngày 01/11/2015; Lý Thanh S, sinh ngày 19/7/2018 cho bà Lâm Thị Kim H được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi thành niên, ông Lý Bình D không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà H không có yêu cầu.

+ Về tài sản chung: Bà Lâm Thị Kim H xác định trong thời gian chung sống bà và ông Lý Bình D không có tài sản chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

+ Về nợ chung: Bà Lâm Thị Kim H xác định trong thời gian chung sống bà và ông Lý Bình D không có nợ chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Lý Bình D từ khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông D nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông D hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lâm Thị Kim H vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông Lý Bình D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà H và ông D.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lâm Thị Kim H xác định năm 2003, bà và ông Lý Bình D chung sống với nhau trên cở sở tự nguyện và sau đó có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hưng, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, đăng ký vào ngày 01/9/2011. Hôn nhân của bà H và ông D tuân thủ các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông D là hợp pháp. Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 15/6/2022 và ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 12/9/2022, bà H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông D với lý do trong quá trình chung sống, đến năm 2017 thì hai bên bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày do ông D có mối quan hệ bất chính với người phụ nữ khác, không chăm lo gia đình nên vợ chồng thường xuyên cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn gay gắt, đời sống hôn nhân không hạnh phúc và ông, bà đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Từ khi bà H chính thức xin ly hô n đ ến nay nhưng hai bên không tìm biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồ ng. Đối với b ị đ ơn ông Lý Bình D, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông D biết nhưng ông không có ý kiến phản đối gì và cũng không trình bày ý kiến gì cho Tòa án. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông D đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Lâm Thị Kim H được ly hôn với ông Lý Bình D.

[3]. Về con chung: Bà Lâm Thị Kim H xác định trong thời gian chung sống bà và ông Lý Bình D có 05 (Năm) người con chung là Lý Minh V, sinh ngày 31/12/2004; Lý Minh L, sinh ngày 28/11/2006; Lý Thị Mỹ N, sinh ngày 01/6/2009; Lý Hoàng T, sinh ngày 01/11/2015; Lý Thanh S, sinh ngày 19/7/2018, hiện nay các con chung đang sống chung với bà H. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt bà H xác định từ khi bà và ông D sống ly thân thì bà là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu V, cháu L, cháu N, cháu H và cháu S, hiện nay các cháu vẫn đang chung sống với bà nên bà xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng các cháu đến khi thành niên. Xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế bà H và ông D đã không còn chung sống với nhau từ năm 2017 cho đến nay, trong khoảng thời gian này các người con chung sống với bà H, do bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, cuộc sống của các cháu đã ổn định về mọi mặt; việc thay đổi điều kiện, hoàn cảnh sống sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm, sự phát triển bình thường về mọi mặt của cháu; đồng thời quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến cháu V, cháu N và cháu L thì nguyện vọng của các cháu muốn sống chung với bà H. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao con chung là cháu V, cháu L, cháu N, cháu H và cháu S cho bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là cần thiết và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra căn cứ vào khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Lý Bình D mà không ai được ngăn cản.

[4]. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án bà Lâm Thị Kim H không có yêu cầu ông Lý Bình D cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[5]. Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Lâm Thị Kim H xác định bà và ông Lý Bình D không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải q uyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[6]. Về nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Lâm Thị Kim H xác định bà và ông Lý Bình D không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[7]. Về án phí: Bà Lâm Thị Kim H phải chịu án phí theo qui định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Ông Lý Bình D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[8]. Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú về đề nghị giải quyết về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Lâm Thị Kim H được ly hôn với ông Lý Bình D.

2. Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung:

+ Về con chung: Giao các con chung là cháu Lý Minh V, sinh ngày 31/12/2004; Lý Minh L, sinh ngày 28/11/2006; Lý Thị Mỹ N, sinh ngày 01/6/2009; Lý Hoàng T, sinh ngày 01/11/2015; Lý Thanh S, sinh ngày 19/7/2018 cho bà Lâm Thị Kim H được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuô i dưỡng đến khi thành niên. Dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Lý Bình D mà không ai được ngăn cản.

+ Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án bà Lâm Thị Kim H không có yêu cầu ông Lý Bình D cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về tài sản chung: Bà Lâm Thị Kim H xác định bà và ông Lý Bình D không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử khô ng đ ặt ra xem xét.

4. Về nợ chung: Bà Lâm Thị Kim H xác định bà và ông Lý Bình D không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lâm Thị Kim H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004553 ngày 15/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà H đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm; ông Lý Bình D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

85
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 91/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:91/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về