Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 90/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 90/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/09/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 16 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 188/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 6 năm 2022 về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Bà Thạch Thị Sa P, sinh ngày 01 tháng 01 năm 1989; địa chỉ: Ấp C, xã T, huyện T, tỉnh Trà Vinh (Vắng mặt).

Bị đơn: Ông Lý V, sinh năm 1990; địa chỉ: Ấp K, xã L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 15/6/2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Thạch Thị Sa P trình bày:

Vào ngày 07 tháng 6 năm 2011, bà Thạch Thị Sa P và ông Lý V quen biết với nhau và qua thời gian tìm hiểu và tự nguyện xác lập quan hệ hôn nhân với nhau có sự đồng ý của gia đình hai bên và có đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân thị trấn Long Phú, huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Sau kết hôn bà Thạch Thị Sa P và ông Lý V về sống bên nhà cha mẹ ông Lý V tại ấp K, xã L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng. Đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, vợ chồng thường cự cãi nhau do ông Lý V không lo làm ăn, không quan tâm chăm sóc gia đình. Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên bà và ông Lý V sống ly thân với nhau từ năm 2017 đến nay. Trong quá trình chung sống bà và ông Lý V có 02 con chung tên Lý Bảo N, sinh ngày 18/4/2011 và Lý Bảo Q, sinh ngày 23/01/2013, hiện các con chung đang sống với bà. Về tài sản chung và nợ chung không có.

Tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 12 tháng 9 năm 2022, bà Thạch Thị Sa P vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, cụ thể: Về hôn nhân xin được ly hôn với ông Lý V; về con chung: Xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Lý Bảo N, sinh ngày 18/4/2011 và Lý Bảo Q, sinh ngày 23/01/2013 đến khi thành niên, không yêu cầu ông Lý V cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn ông Lý V: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông Lý V, nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Lý V 02 lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Lý V để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

- Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền; việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký, Hội đông xét xử; nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hôị đông xét xử vào nghi ̣án đã chấp hành đúng các quy điṇh của pháp luâṭ vê tố tụng dân sự riêng bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, đ iểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án giải quyết:

+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Thạch Thị  Sa P.

+ Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng: Giao con chung là cháu Lý Bảo N, sinh ngày 18/4/2011 và Lý Bảo Q, sinh ngày 23/01/2013 cho bà Thạch Thị Sa P được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng đến khi thành niên, ông Lý V không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà Thạch Thị Sa P không có yêu cầu.

+ Về tài sản chung: Bà Thạch Thị Sa P xác định trong thời gian chung sống bà và ông Lý V không có tài sản chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

+ Về nợ chung: Bà Thạch Thị Sa P xác định trong thời gian chung sống bà và ông Lý V không có nợ chung, bà không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Thủ tục tố tụng: Bị đơn ông Lý V từ khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho ông Lý V nhưng ông không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ ông Lý V hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Thạch Thị Sa P vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn ông Lý V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng không lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm a, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bà Thạch Thị Sa P và ông Lý V.

[2]. Về quan hệ hôn nhân: Bà Thạch Thị Sa P xác định bà và ông Lý V chung sống với nhau trên cở sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Long Phú, đăng ký vào ngày 07/6/2011. Hôn nhân của bà P và ông Viên tuân thủ các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân giữa bà P và ông Viên là hợp pháp. Theo nội dung đơn khởi kiện ngày 15/6/2022 và ý kiến trình bày trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt ngày 12/9/2022, bà P vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với ông Viên với lý do trong quá trình chung sống, đến năm 2017 thì hai bên bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày, thường xuyên cãi nhau dẫn đến mâu thuẫn gay gắt, đời sống hôn nhân không hạnh phúc và ông, bà đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Từ khi bà P chính thức xin ly hôn đến nay nhưng hai bên không tìm biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Đối với bị đơn ông Lý V, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho ông Viên biết nhưng ông không có ý kiến phản đối gì và cũng không trình bày ý kiến gì cho T ò a án. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa bà P và ông Viên đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Thạch Thị Sa P được ly hôn với ông Lý V.

[3]. Về con chung: Bà Thạch Thị Sa P xác định trong thời gian chung sống bà và ông Lý V có 02 (hai) người con chung là Lý Bảo N, sinh ngày 18/4/2011 và Lý Bảo Q, sinh ngày 23/01/2013, hiện nay các cháu đang sống chung với bà P. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại đơn đề nghị xét xử vắng mặt bà P xác định từ khi bà và ông Viên sống ly thân thì bà là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu N và cháu Q, hiện nay hai cháu vẫn đang chung sống với bà nên bà xin được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu đến khi thành niên. Xét điều kiện, hoàn cảnh thực tế bà P và ông Viên đã không còn chung sống với nhau từ năm 2017 cho đến nay, trong khoảng thời gian này cháu N và cháu Q chung sống với bà P, do bà trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, cuộc sống của các cháu đã ổn định về mọi mặt; việc thay đổi điều kiện, hoàn cảnh sống sẽ làm ảnh hưởng đến tâm lý, tình cảm, sự phát triển bình thường về mọi mặt của các cháu; đồng thời quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành ghi nhận ý kiến cháu N và cháu Q thì nguyện vọng của các cháu muốn sống chung với bà P. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định giao hai con chung là cháu N và cháu Q cho bà P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là cần thiết và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Ngoài ra căn cứ vào khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, d ành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Lý V mà không ai được ngăn cản.

[4]. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án bà Thạch Thị Sa P không có yêu cầu ông Lý V cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[5]. Về tài sản chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Thạch Thị Sa P xác định bà và ông Lý V không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[6]. Về nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Thạch Thị Sa P xác định bà và ông Lý V không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét là có căn cứ.

[7]. Về án phí: Bà Thạch Thị Sa P phải chịu án phí theo qui định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Ông Lý V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[8]. Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú về đề nghị giải quyết về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 và 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Bà Thạch Thị Sa P được ly hôn với ông Lý V.

2. Về con chung và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung:

+ Về con chung: Giao con chung là cháu Lý Bảo N, sinh ngày 18/4/2011 và cháu Lý Bảo Q, sinh ngày 23/01/2013 cho bà Thạch Thị Sa P được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục và nuôi dưỡng đến khi thành niên. Dành quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung cho ông Lý V mà không ai được ngăn cản.

+ Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Quá trình giải quyết vụ án bà Thạch Thị Sa P không có yêu cầu ông Lý V cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về tài sản chung: Bà Thạch Thị Sa P xác định bà và ông Lý V không có tài sản chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

4. Về nợ chung: Bà Thạch Thị Sa P xác định bà và ông Lý V không có nợ chung, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Thạch Thị Sa P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0004649 ngày 15/6/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, bà P đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm; ông Lý V không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày tống đạt hợp lệ bản án theo quy định pháp luật.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 90/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:90/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về