Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 67/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 67/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/10/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 04 tháng 10 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 342/2021/TLST- HNGĐ ngày 22/6/2021 về việc về việc “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 21 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Đào Bích T, sinh năm 1985;

Trú tại: Số X, ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre Bị đơn Ông Tăng Quốc V, sinh năm 1974;

Trú tại: Số X, ấp P, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Tất cả có mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 31/5/2021, bản tự khai, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa bà Đào Bích T trình bày:

Bà T và ông V đám cưới trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào năm 2004. Quá trình chung sống hạnh phúc được 17 năm. Khoảng 10 năm trước, giữa bà T và ông V đã có mâu thuẫn do ông V không quan tâm, mẹ chồng khó khăn nên bà T có lên Thành phố Hồ Chí Minh sinh sống khoảng 01 năm thì ông V có lên rước về sống chung lại. Đến năm 2020 thì tiếp tục mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng về quan điểm, tính cách, thường hay cãi nhau, không có tiếng nói chung và mâu thuẫn về kinh tế gia đình. Chi tiêu sinh hoạt gia đình nhiều nhưng tiền ông V đưa không đủ nên bà T có sử dụng tiền và vàng ông V đưa cất giữ để sinh hoạt gia đình, không có nói cho ông V biết, khi ông V biết thì không đồng ý nên dẫn đến mâu thuẫn. Bà T và ông V đã sống ly thân từ tháng 5/2021 cho đến nay. Do không còn tình cảm nên nay bà T yêu cầu ly hôn với ông Tăng Quốc V. Bà T không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng sau ly hôn.

Con chung: Bà T và ông V có 02 con chung là cháu Tăng Quốc C, sinh ngày 08/5/2004 và cháu Tăng Minh Đ, sinh năm 23/01/2012; bà T yêu cầu được nuôi hai con chung, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Trong bản tự khai, các biên bản hòa giải và tại phiên tòa ông Tăng Quốc V trình bày:

Về thời gian kết hôn và đăng ký kết hôn như bà T trình bày là đúng. Trước đây khoảng 10 năm giữa ông V và bà T cũng có mâu thuẫn như bà T trình bày nhưng sau đó đã hàn gắn lại. Quá trình chung sống từ đó đến nay không có mâu thuẫn gì lớn, ông V vẫn quan tâm chăm sóc vợ con, mỗi tháng đều có đưa 2.000.000 đồng cho bà T đi chợ, giữa mẹ chồng và con dâu cũng không có mâu thuẫn gì. Trước đây ông V có đưa cho bà T giữ vàng và tiền nhưng khi kiểm tra lại thì không còn do bà T tự ý xài mà không hỏi ông V nên mới mâu thuẫn gần đây. Do còn thương vợ thương con nên không đồng ý ly hôn.

Con chung: có 02 con chung là cháu Tăng Quốc C, sinh ngày 08/5/2004 và cháu Tăng Minh Đ, sinh năm 23/01/2012. Nếu Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T thì ông V yêu cầu được nuôi cháu Tăng Minh Đ, bà T nuôi cháu Tăng Quốc C, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. Nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Trước đây ông V có yêu cầu bà T trả lại cho ông V 14 chỉ vàng (13 chỉ vàng 24K và 01 chỉ vàng 9999) và 600 đô la mỹ nhưng nay ông V không yêu cầu giải quyết, để tự thỏa thuận, nếu có tranh chấp sẽ kiện bằng vụ án khác Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký các đương sự tuân thủ đúng quy định của pháp luật tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Do mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng của bà T và ông V đã đến mức trầm trọng, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Đề nghị Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông V. Về con chung: Bà T được tiếp tục nuôi cháu Tăng Quốc C, sinh ngày 08/5/2004 và cháu Tăng Minh Đ, sinh năm 23/01/2012, ông V không phải cấp dưỡng nuôi con do bà T tự nguyện không yêu cầu. Về tài sản chung: Không có yêu cầu nên không xét đến; nợ chung: Hai bên khai không có nên không xét đến. 

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con chung nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn ông Tăng Quốc V có nơi cư trú tại ấp P, xã P, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà T và ông V kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào năm 2004 là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được đến khoảng 17 năm, thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi nhau, mâu thuẫn về vấn đề tiền bạc, kinh tế gia đình và cách giáo dục con cái. Tại biên bản làm việc ngày 01/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành với bà Phan Kim L (là mẹ ruột của ông V) xác định quá trình chung sống giữa bà T và ông V không hạnh phúc, xuất phát từ việc bà T tự ý sử dụng tiền của ông V (BL 30). Ông V không đồng ý ly hôn, tuy nhiên giữa ông V và bà T đã ly thân từ tháng 5/2021 đến nay, trong suốt quá trình hòa giải của Tòa án cũng như tại phiên tòa bà T vẫn cương quyết ly hôn. Điều đó đã chứng tỏ việc hòa giải đoàn tụ cho bà T và ông V không có kết quả, mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng của bà T và ông V đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T đối với ông V là phù hợp quy định pháp luật. Bà T, ông V tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau ly hôn nên ghi nhận.

[3] Về con chung: Bà T và ông V có 02 con chung là cháu Tăng Quốc C, sinh ngày 08/5/2004 và cháu Tăng Minh Đ, sinh năm 23/01/2012 hiện đang sống chung với bà T. Bà T yêu cầu nuôi hai con chung, ông V yêu cầu nuôi cháu Tăng Minh Đ.

Đối với cháu Tăng Quốc C hai bên đương sự đều thống nhất giao cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng nên ghi nhận. Xét việc giao cháu Tăng Minh Đ cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt về điều kiện vật chất và tinh thần, sự phát triển bình thường của đứa trẻ. Để chứng minh điều kiện nuôi con của mình, bà T đã giao nộp Phiếu lương tại Công ty PUNGKOOK (BL 38-40); ông V cung cấp sổ phụ tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Sacombank (BL42). Xét về điều kiện kinh tế, ông V có điều kiện kinh tế cao hơn so với bà T. Tuy nhiên, bản thân bà T cũng có công việc và thu nhập ổn định; cháu Đ sống chung với bà T từ nhỏ đến nay; thời điểm hiện tại, cháu Đ vẫn được bà T chăm sóc, phát triển bình thường, vẫn được tạo điều kiện học tập đầy đủ. Điều này được hiện qua việc cháu Đ vẫn đang được đi học và đạt được thành tích học tập tốt qua các năm. Mặc khác, theo biên bản ghi ý kiến con chung ngày 01/7/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, cháu Đ có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ nếu cha mẹ ly hôn (BL31). Do đó, để đảm bảo việc phát triển đầy đủ mọi mặt và đặc biệt là đảm bảo ổn định về mặt tâm lý và tinh thần cho cháu Đ nên giao cháu Đ cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Bà T tự nguyện không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con chung nên ghi nhận.

[4] Về tài sản chung: Các bên đương sự không có yêu cầu nên không xét đến, nợ chung: khai không có nên không xét đến.

[5] Đối với có yêu cầu bà T trả lại cho ông V 14 chỉ vàng (13 chỉ vàng 24K và 01 chỉ vàng 9999) và 600 đô la mỹ, hiện ông V không yêu cầu giải quyết, nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà T phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 56; 81; 82; 83; 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Đào Bích T đối với ông Tăng Quốc V. Bà Đào Bích T được ly hôn với ông Tăng Quốc V. Quan hệ hôn nhân giữa bà Đào Bích T và ông Tăng Quốc V chấm dứt kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ghi nhận bà Đào Bích T và ông Tăng Quốc V không yêu cầu cấp dưỡng cho vợ chồng sau khi ly hôn.

2. Về con chung: Bà Đào Bích T được tiếp tục nuôi 02 con chung là cháu Tăng Quốc C, sinh ngày 08/5/2004 và cháu Tăng Minh Đ, sinh năm 23/01/2012. Ông V không phải cấp dưỡng nuôi con chung do bà T tự nguyện không yêu cầu.

Ông Tăng Quốc V được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên cha mẹ, cơ quan tổ chức có thẩm quyền có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Đương sự không có yêu cầu; nợ chung: hai bên khai không có nên không xét đến.

4. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Đào Bích T phải chịu là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai tạm ứng án phí số 0007986 ngày 18/6/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Bà Đào Bích T đã nộp xong án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 67/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:67/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về