Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 66/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 66/2021/HNGĐ-ST NGÀY 04/10/2021 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Ngày 04 tháng 10 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 310/2021/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 5 năm 2021 về việc: “Ly hôn và tranh chấp nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 44/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Nguyễn Thành Đ, sinh năm 1988 (Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt);

Trú tại: Số A, ấp B, xã L, huyện H, tỉnh Tây Ninh 

Bị đơn: Bà Trần Thụy Thúy H, sinh năm 1986 (Vắng mặt);

Trú tại: Số C, ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 12/5/2021, bản tự khai, ông Nguyễn Thành Đ trình bày:

Ông Đ và bà H đám cưới trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Long Thành Nam, huyện Hòa Thanh, tỉnh Tây Ninh vào năm 2008. Sau khi kết hôn cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu. Đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm, thường hay cãi nhau. Hiện tại, ông Đ và bà H đã sống ly thân từ đầu năm 2014 cho đến nay. Do không còn tình cảm nên nay ông Đ yêu cầu ly hôn với bà Trần Thụy Thúy H. Ông Đ không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ chồng sau ly hôn.

Con chung: Ông Đ và Hằng có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Hà P, sinh ngày 03/11/2009 và Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 23/8/2013 hiện đang sống với mẹ. Ông Đ đồng ý để bà H yêu cầu nuôi hai con chung, ông Đ không cấp dưỡng nuôi con chung. Tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Ngày 08/7/2021, ông Đ có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên không có lời trình bày tại phiên tòa.

Trần Thụy Thúy H được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để hòa giải và dự phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký nguyên đơn tuân thủ đúng quy định của pháp luật tuân thủ đúng quy định pháp luật tố tụng. Riêng bị đơn được triệu tập nhiều lần nhưng vắng mặt không có lý do.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Do mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng của ông Đ và bà H đã đến mức trầm trọng, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng. Đề nghị Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đ đối với bà H. Về con chung: Bà H tiếp tục nuôi 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Hà P, sinh ngày 03/11/2009 và Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 23/8/2013; ông Đ không phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Ông Đ khai không có nên không xét đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn bà Trần Thụy Thúy H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do chính đáng đến lần thứ hai, nguyên đơn ông Nguyễn Thành Đ có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt ông Đ, bà H là phù hợp với Điều 227; Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con chung nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Bị đơn bà Trần Thụy Thúy H có nơi cư trú tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Ông Đ và bà H kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Long Thành Nam, huyện Hòa Thanh, tỉnh Tây Ninh là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được đến năm 2014, thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính tình không hợp nhau, thường xuyên cãi nhau. Tại biên bản làm việc ngày 18/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành với bà Trần Thị Kim C (là mẹ ruột của bà H) xác định quá trình chung sống giữa ông Đ và bà H không hạnh phúc, nghe nói lại là ông Đ có quen người khác ở bên ngoài; từ năm 2014 bà H cùng hai con đã về sống chung với bà tại xã T, huyện C, tỉnh Bến Tre đến nay; từ khi sống ly thân ông Đ thỉnh thoảng có đến thăm con, hai vợ chồng không có hàn gắng tình cảm gì với nhau (BL 25). Tòa án đã triệu tập bà H nhiều lần để dự các phiên hòa giải đoàn tụ nhưng bà H vẫn vắng mặt không có lý do, cho thấy bà H đã từ bỏ mối quan hệ hôn nhân này. Điều đó đã chứng tỏ mâu thuẫn trong cuộc sống vợ chồng của ông Đ và bà H đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ vợ chồng. Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Đ đối với bà H là phù hợp quy định pháp luật. Ông Đ tự nguyện không yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau ly hôn nên ghi nhận.

[3] Về con chung: Ông Đ và bà H có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Hà P, sinh ngày 03/11/2009 và Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 23/8/2013 hiện đang sống chung với bà H. Xét việc giao con chung cho ai nuôi cần xem xét mọi mặt về điều kiện vật chất và tinh thần, sự phát triển bình thường của đứa trẻ. Tại biên bản làm việc ngày 18/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành với bà Trần Thị Kim C (là mẹ ruột của bà H) (BL 25) xác định hiện tại bà H có công việc ổn định đảm bảo đủ điều kiện để chăm sóc giáo dục con chung, cháu P và cháu M vẫn được chăm sóc và tạo điều kiện phát triển bình thường. Ngoài ra, tại biên bản ghi ý kiến con chung ngày 30/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre (BL26), cháu P và cháu M cũng có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ nếu cha mẹ phải ly hôn. Bản thân ông Đ cũng đồng ý để bà H tiếp tục nuôi hai con chung. Để đảm bảo việc phát triểu ổn định về vật chất và tinh thần cho các cháu nên giao cháu P và cháu M cho bà H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Ông Đ không cấp dưỡng nuôi con chung, bà H vắng mặt trong suốt thời gian tố tụng tại Tòa án nên khong có ý kiến về việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không xem xét giải quyết. Trường hợp bà H có yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con chung thì được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Ông Nguyễn Thành Đ khai không có nên không xét đến.

[5] Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Đ phải chịu theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 56; 81; 82; 83; 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 227; Điều 228; khoản 1 Điều 273; Điều 278 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Thành Đ đối với bà Trần Thụy Thúy H. Ông Nguyễn Thành Đ được ly hôn với bà Trần Thụy Thúy H. Quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Thành Đ và bà Trần Thụy Thúy H chấm dứt kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật. Ghi nhận ông Nguyễn Thành Đ không yêu cầu cấp dưỡng cho vợ chồng sau khi ly hôn.

2. Về con chung: Bà Trần Thụy Thúy H được tiếp tục nuôi 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Hà P, sinh ngày 03/11/2009 và Nguyễn Ngọc Hà M, sinh ngày 23/8/2013. Do bà H vắng mặt trong suốt thời gian tố tụng tại Tòa án nên không xem xét giải quyết về việc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Trường hợp bà H có yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con chung thì được quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết bằng một vụ án khác.

Ông Nguyễn Thành Đ được quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.Vì lợi ích của con chung sau này, một hoặc cả hai bên cha mẹ, cơ quan tổ chức có thẩm quyền có quyền yêu cầu thay đổi việc nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Ông Nguyễn Thành Đ khai không có nên không xét đến.

4. Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Ông Nguyễn Thành Đ phải chịu là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai tạm ứng án phí số 0005128 ngày 21/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Ông Nguyễn Thành Đ đã nộp xong án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

313
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và tranh chấp nuôi con chung số 66/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:66/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 04/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về