TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 236/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP CON CHUNG KHI LY HÔN
Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 274/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn và con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 238/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 07 tháng 9 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 212/2022/QĐST-HNGĐ, ngày 27/9/2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Thu T; Nơi cư trú: Thôn T, xã K, huyện T, thành phố H; vắng mặt (Có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T; Nơi cư trú: Thôn T, xã K, huyện T, thành phố H; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Hoàng Thị Thu T trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện được hai bên gia đình tổ chức cưới theo phong tục địa phương và có đăng ký kết hôn tại UBND xã K vào năm 2018. Sau khi cưới vợ chồng về sinh sống cùng gia đình anh T tại thôn T, xã K, huyện T, thành phố H đến tháng 6/2021 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống trong làm ăn kinh tế dẫn đến vợ chồng không còn tình cảm, thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau, do mâu thuẫn nên chị đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại thôn 6, xã Kiền Bái, huyện T, thành phố H từ đó đến nay, để giải phóng cho nhau chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Văn T.
Về con chung: Chị và anh T có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Phương N, sinh ngày 19/5/2019, kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay con chung do chị T nuôi dưỡng, chăm sóc. Khi ly hôn để ổn định tâm lý cho con học tập phát triển chị T đề nghị được tiếp tục nuôi con chung cho đến khi con trưởng thành.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung để chị và anh T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị và anh T không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình giải quyết vụ án anh T đã có quan điểm trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Thống nhất với lời trình bày của chị T về thời điểm kết hôn, điều kiện kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng cũng không có gì lớn, anh vẫn chăm lo gia đình không hiểu lý do gì chị T bỏ nhà về nhà bố mẹ đẻ sinh sống, nay chị T quyết tâm xin ly hôn anh T không đồng ý mong muốn vợ chồng về đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con chung.
Về con chung: Anh và chị T có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Phương N, sinh ngày 19/5/2019, kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay con chung do chị T nuôi dưỡng, chăm sóc. Chị T xin ly hôn anh không đồng ý ly hôn, con chung còn nhỏ anh để chị T chăm sóc.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung để anh và chị T tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Anh và chị T không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Qua kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án và tham gia phiên tòa sơ thẩm hôm nay. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:
Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định về Nệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán, đã thực hiện đúng và đầy đủ quy định về ra Thông báo thụ lý vụ án, bảo đảm về thời hạn chuẩn bị xét xử, việc lập hồ sơ vụ án, xác định tư cách pháp lý và mối quan hệ giữa những người tham gia tố tụng, việc giao nộp và yêu cầu đương sự giao nộp tài liệu, chứng cứ, xác minh, cấp tống đạt và tổ chức phiên họp kiểm tra tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải đã đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã đảm bảo tuân theo đúng quy định của pháp luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án.
Việc chấp hành pháp luật của các đương sự trong vụ án, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định, bị đơn chưa chấp hành đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Căn cứ Điều 28, Điều 35, điểm b, khoản 1, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình nên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Hoàng Thị Thu T và đề nghị Hội đồng xét xử: Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hoàng Thị Thu T được ly hôn anh Nguyễn Văn T; Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Hoàng Phương N, sinh ngày 19/5/2019, cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật; Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên kiểm sát viên không đề cập giải quyết; về tài sản chung: Chị T và anh T thống nhất trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về án phí: Nguyên đơn chị Hoàng Thị Thu T phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng Nguyên đơn chị Hoàng Thị Thu T vắng mặt, song có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh Nguyễn Văn T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ song vắng mặt không có lý do. Vì vậy căn cứ điểm b, khoản 1, Điều 39 và khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.
[2] Về quan hệ hôn nhân Xét chị T và anh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K theo Giấy chứng nhận kết hôn số 64/2018, ngày 18 tháng 10 năm 2018 là hôn nhân hợp pháp. Chị T trình bày trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh Nều mâu thuẫn bất đồng quan điểm trong mọi vấn đề cuộc sống chị đã cố gắng nhưng cuộc sống vợ chồng cũng không cải thiện được. Do mâu thuẫn nên vợ chồng căng thẳng nên đã sống ly thân nhau và không còn quan tâm nhau từ năm tháng 6/2021. Nay chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn, bị đơn anh T vắng mặt tại phiên tòa song đã có quan điểm trình bày mong muốn chị suy nghĩ lại vợ chồng về đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con chung, anh không đồng ý ly hôn. Hội đồng xét xử, xét: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị T và anh T đã kéo dài hơn một năm, chị T cùng con đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở anh T mong muốn vợ chồng về đoàn tụ nhưng lại không thiện chí hợp tác đến Tòa án và cũng không chủ động gặp gỡ chị T và gia đình để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do vậy mục đích hôn nhân giữa chị T và anh T không đạt được nên căn cứ quy định tại Điều 51, Điều 56 cho chị T và anh T được ly hôn.
[3] Về con chung Chị T và anh T có 01 con chung tên Nguyễn Hoàng Phương N, sinh ngày 19/5/2019, kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay con chung do chị T nuôi dưỡng, chăm sóc. Khi ly hôn để ổn định tâm lý cho con học tập phát triển chị T đề nghị được tiếp tục nuôi con chung cho đến khi con trưởng thành. Bị đơn anh T không đồng ý ly hôn nhưng con chung còn nhỏ nên anh đồng ý để chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc con. Xét về điều kiện nuôi con chung của chị T và anh T là như nhau, tuy Nên vì hiện nay con chung còn nhỏ để ổn định cuộc sống, học tập. Hội đồng xét xử, xét cần giao con chung cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị T và anh T đều thống nhất trình bày để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
[4] Về tài sản chung Chị T và anh T thống nhất trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
[5] Về án phí Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Hoàng Thị Thu T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 56, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hoàng Thị Thu T được ly hôn anh Nguyễn Văn T.
2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Hoàng Phương N, sinh ngày 19/5/2019, cho chị Hoàng Thị Thu T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi từng con chung trưởng thành đủ 18 tuổi có khả năng lao động hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hoàng Thị Thu T và anh Nguyễn Văn T đều thống nhất trình bày để hai bên tự thỏa thuận giao nhận cho nhau không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
3. Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị Thu T và anh Nguyễn Văn T thống nhất trình bày vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.
4. Về án phí: Chị Hoàng Thị Thu T phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm và 300.000 đồng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn) đồng tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008099, ngày 26 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thành phố H.
Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn và tranh chấp con chung khi ly hôn số 236/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 236/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về