TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN-TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 30/2024/HNGĐ-ST NGÀY 19/04/2024 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON
Ngày 19 tháng 4 năm 2024, tại Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử công khai sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 27/2024/TLST-HNGĐ, ngày 12 tháng 01 năm 2024 về việc: “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2024/QĐXXST-HNGĐ, ngày 15 tháng 3 năm 2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 34/2024/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 4 năm 2024, giữa các đương sự:
1- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hoàng Đ, sinh ngày 03/10/1986 (có mặt).
Địa chỉ: Ấp H, xã K, huyện U, tỉnh Cà Mau.
2- Bị đơn: Chị Phạm Thị Mộng N, sinh năm 1985 (vắng mặt).
Địa chỉ: Ấp K, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 25/7/2023 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng Đ trình bày và yêu cầu như sau:
Về hôn nhân: Anh Nguyễn Hoàng Đ và chị Phạm Thị Mộng N kết hôn với nhau năm 2008, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán ở địa phương và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tây Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vào ngày 05/12/2008, vợ chồng về chung sống được một thời gian thì xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, làm cho vợ chồng không còn hạnh phúc, từ đó vợ chồng ly đến nay hơn 15 năm. Nay anh xét thấy tình cảm của vợ chồng không còn nữa nên anh yêu cầu xin ly hôn với chị Phạm Thị Mộng N.
Về con chung: Có 01 người con tên Nguyễn Tường V, sinh ngày 11/10/2009, hiện đang sống với anh Đ. Nay anh yêu cầu xin được nuôi con và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản và nợ chung: Anh Nguyễn Hoàng Đ thừa nhận không có nên không yêu cầu giải quyết.
Đối với bị đơn chị Phạm Thị Mộng N Tòa án đã tống đạt hợp lệ gồm: Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng chị Nghi vẫn vắng mặt và cũng không có ý kiến gì đối với yêu cầu của anh Đ.
Tại phiên tòa hôm nay, anh Nguyễn Hoàng Đ vẫn giữ nguyên ý kiến và yêu cầu như sau:
Về hôn nhân: Anh yêu cầu ly hôn với chị Phạm Thị Mộng N.
Về con chung: Anh yêu cầu nuôi con, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản và nợ chung: Không có nên không yêu cầu giải quyết. Quan điểm của đại viện Viện kiểm sát:
Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, của Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Tuân thủ và chấp hành đúng theo quy định của pháp luật.
Về giải quyết vụ án:
Về hôn nhân: Ghi nhận yêu cầu của anh Nguyễn Hoàng Đ xử cho anh Nguyễn Hoàng Đ và chị Phạm Thị Mộng N được ly hôn.
Về con chung: Ghi nhận yêu cầu của anh Nguyễn Hoàng Đ giao cháu Nguyễn Tường V, sinh ngày 11/10/2009 (theo nguyện vọng của cháu V) cho anh Đ chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản và nợ chung: Anh Đ thừa nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền xét xử: Đây là quan hệ tranh chấp về ly hôn, tranh chấp về nuôi con và bị đơn trong vụ án có nơi cư trú trên địa bàn huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Căn cứ khoản 1 Điều 28 điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử là đúng thẩm quyền.
[2] Về thủ tục tố tụng: Đối với chị Phạm Thị Mộng N được Tòa án triệu tập xét xử hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với chị Phạm Thị Mộng N.
[3] Về nội dung vụ án:
Về hôn nhân: Anh Nguyễn Hoàng Đ và chị Phạm Thị Mộng N kết hôn với nhau năm 2008, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tây Yên, huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang vào ngày 05/12/2008 nên hôn nhân của anh Đ và chị N là hợp pháp.
Về mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, dẫn đến cự cãi nhau từ đó vợ chồng đã ly thân đến nay hơn 15 năm, trong thời gian vợ chồng ly thân anh chị và gia định cũng không tự hoà giải với nhau được.
Từ đó, xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Hoàng Đ xử cho anh Nguyễn Hoàng Đ và chị Phạm Thị Mộng N ly hôn là phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Về con chung: Anh Nguyễn Hoàng Đ và chị Phạm Thị Mộng N có 01 người con chung tên Nguyễn Tường V, sinh ngày 11/10/2009, khi ly hôn anh Đ yêu cầu xin được nuôi con, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy yêu cầu của anh Đ là có cơ sở chấp nhận. Bởi vì, từ khi vợ chồng ly thân cho đến nay anh Đ là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu V, cuộc sống của cháu V cũng ổn định, đồng thời cũng theo nguyện vọng của cháu V và bản thân của anh Đ cũng có điều kiện để nuôi con. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh Đ, xử giao cháu Nguyễn Tường V cho anh Đ chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị N không phải cấp dưỡng nuôi con là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Về tài sản và nợ chung: Anh Đ thừa nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
[4] Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Nguyễn Hoàng Đ phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). Nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng. Vậy anh Đ đã nộp đủ tiền án phí.
Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận, như đã nhận định nêu trên.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án và khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.
Tuyên xử:
1.Về hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Hoàng Đ và chị Phạm Thị Mộng N ly hôn.
2.Về con chung: Xử giao cháu Nguyễn Tường V, sinh ngày 11/10/2009 (theo nguyện vọng của cháu V) cho anh Nguyễn Hoàng Đ chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Phạm Thị Mộng N không phải cấp dưỡng nuôi con.
Chị N có quyền thăm nom con chung, không ai được ngăn cản. Khi cần thiết anh Đ và chị N có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản và nợ chung: Anh Nguyễn Hoàng Đ thừa nhận không có và không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.
4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Anh Nguyễn Hoàng Đ phải chịu 300.000đ (ba trăm ngàn đồng). Nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm ngàn đồng), theo lai thu số: 0009134 ngày 09/01/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Vậy anh Đ đã nộp đủ tiền án phí.
5. Báo quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm báo cho anh Đ có mặt biết có quyền kháng cáo Bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (19/4//2024). Đối với chị N vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
6. Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn và nuôi con số 30/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 30/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 19/04/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về