TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 53/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/08/2021 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 27 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 110/2021/TLST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn và nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐST- HNGĐ ngày 04 tháng 8 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 32/2021/QĐST-HNGĐ ngày 20 tháng 8 năm 2021 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị N, sinh năm 1992; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã N, huyện K, thành phố Hải Phòng, vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).
- Bị đơn: Anh Vũ Hữu V, sinh năm 1993; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn H, xã N, huyện K, thành phố Hải Phòng, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn xin ly hôn đề ngày 31 tháng 5 năm 2021 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện K, nguyên đơn là chị Vũ Thị N trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị N và anh Vũ Hữu V kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 26 tháng 4 năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã N, huyện K, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn anh, chị cùng chung sống tại thôn H, xã N, huyện K, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được khoảng 02 tháng thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh V mắc nghiện ma túy, vay nợ và phá tán tài sản gia đình. Mâu thuẫn vợ chồng đã được hai bên gia đình hòa giải xong không cải thiện được mà ngày càng căng thẳng hơn. Chị N đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay, trong thời gian sống ly thân chị N và anh V không còn quan tâm đến nhau nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị N được ly hôn với anh Vũ Hữu V.
Về con chung: Chị N khai vợ chồng có 01 con chung là Vũ Thị Hải Y, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2018. Trường hợp ly hôn chị N đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Y. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị N tự thỏa thuận với anh V, do vậy không đề nghị Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung: Chị N để tự thỏa thuận với anh V, không đề nghị Tòa án giải quyết.
Bị đơn là anh Vũ Hữu V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đến ngày Tòa án mở phiên tòa xét xử lần thứ hai anh V vẫn không có mặt tại Tòa án để có ý kiến về yêu cầu xin ly hôn của chị Vũ Thị N.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật; bị đơn chưa chấp hành đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị N và anh Vũ Hữu V đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng dụng khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị N được ly hôn anh V. Về con chung, giao con là Vũ Thị Hải Y cho chị N nuôi dưỡng; Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị N và anh V tự thỏa thuận giải quyết nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét; về tài sản chung do chị N không yêu cầu giải quyết, nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn là chị Vũ Thị N vắng mặt tại phiên tòa nhưng đã có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn là anh Vũ Hữu V đã được Toà án triệu tập hợp lệ để anh V có mặt tại Toà án trình bày ý kiến của mình về việc chị Vũ Thị N có đơn xin ly hôn nhưng anh V vắng mặt tại phiên tòa hai lần không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với nguyên đơn là chị Vũ Thị N và bị đơn là anh Vũ Hữu V.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Vũ Thị N và anh Vũ Hữu V là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến khoảng tháng 7 năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh V chơi bời, sử dụng ma túy, vay nợ và không quan tâm đến cuộc sống gia đình nên hai vợ chồng thường xảy ra mâu thuẫn. Do mâu thuẫn nên chị N và anh V đã sống ly thân từ cuối năm 2018 cho đến nay. Kết quả xác minh tại chính quyền địa phương và gia đình anh V thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị N và anh V phù hợp với lời khai của chị N. Chị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V, anh V không có mặt tại Tòa án theo giấy triệu tập của Tòa án và vắng mặt tại các buổi hòa giải cũng như tại phiên tòa xét xử. Như vậy thể hiện tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh V đã trầm trọng, khả năng vợ chồng đoàn tụ không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó hội đồng xét xử căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị N xin ly hôn với anh V.
[3] Về con chung: Chị N và anh V có 01 con chung là Vũ Thị Hải Y, sinh ngày 25 tháng 8 năm 2018. Trường hợp ly hôn chị N đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Hải Y vì hiện nay cháu Hải Y hiện đang sống cùng chị và chị vẫn đảm bảo việc chăm sóc cháu phát triển tốt về mọi mặt. Mặt khác chị có nơi ở ổn định và hiện tại chị đang làm công nhân, có mức thu nhập ổn định để có thể nuôi dưỡng con. Việc giao con chưa thành niên cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên cũng như đảm bảo quyền được chăm sóc nuôi dưỡng con của cả cha, mẹ. Xét hiện nay, chị N có công việc và thu nhập ổn định, có đủ các điều kiện để có thể nuôi dưỡng và chăm sóc con tốt; anh V không có mặt và không có ý kiến về việc nuôi dưỡng con chung. Như vậy, cần chấp nhận đề nghị của chị N, giao cháu Vũ Thị Hải Y cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung do chị N để tự thỏa thuận với anh V, do vậy tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh V cho đến khi chị N có yêu cầu.
[4] Về tài sản chung: Chị N khai vợ chồng tự thỏa thuận về tài sản chung, không đề nghị Tòa án giải quyết, anh V vắng mặt và chưa có lời khai về tài sản chung vợ chồng, do vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[5] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:
1. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị N được ly hôn anh Vũ Hữu V.
2. Về nuôi con chung:
2.1. Giao con chung Vũ Thị Hải Y sinh ngày 25 tháng 8 năm 2018 cho chị Vũ Thị N trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.
2.2. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Hội đồng xét xử không xem xét, tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung của anh Vũ Hữu V cho đến khi chị N có yêu cầu.
Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về tài sản chung: Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
4. Về án phí: Chị Vũ Thị N phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai số 0009148 ngày 17/6/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, thành phố Hải Phòng. Chị N đa nôp đu tiền án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị N và anh Vũ Hữu V vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ.
Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn và nuôi con khi ly hôn số 53/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 53/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Kiến Thuỵ - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về