Bản án về ly hôn và nuôi con chung số 65/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THUỶ, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 65/2022/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2022 VỀ LY HÔN VÀ NUÔI CON CHUNG

Trong các ngày 06 và 21 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Giao Thủy xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 67/2022/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2022 về việc tranh chấp “Ly hôn và nuôi con chung”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 19 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị Ng; sinh năm 1982 (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Đinh Văn Ph; sinh năm 1978 (vắng mặt).

Đều có địa chỉ: Xóm X, xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 10- 5- 2022 và các văn bản khác có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn là chị Trần Thị Ng trình bày: Chị và anh Đinh Văn Ph qua sự tìm hiểu thống nhất và tự nguyện đi đến kết hôn.Vợ chồng đăng ký kết hôn tại UBND xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định vào ngày 26-11-2001. Sau ngày cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 02 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống, anh Ph thường xuyên chơi bời không tu chí làm ăn, vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2006 đến năm 2021 chị tha thứ cho anh Ph quay về nhưng anh Ph vẫn không thay đổi. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn và cũng không thể đoàn tụ được nữa, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Đinh Văn Ph.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Đinh Văn L ,sinh ngày 20-6- 2002; và Đinh Đặng Nh, sinh ngày 07-01-2012, hiện nay con Đinh Văn L đã đủ 18 tuổi trưởng thành lao động tự lập được chị không yêu cầu Toà án giải quyết về nuôi dưỡng; chị nhận nuôi con Đinh Đặng Nh, sinh ngày 07-01-2012 đến đủ 18 tuổi, trưởng thành, lao động tự lập được, chị không yêu cầu anh Ph cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản: Tài sản riêng, tài sản chung, công nợ, ruộng nhận khoán của HTX:

chị Trần Thị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy đã nhiều lần triệu tập và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng bị đơn anh Đinh Văn Ph vẫn vắng mặt. Vì vậy anh Ph không tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như phiên toà xét xử vụ án. Anh Ph vắng mặt nên không có quan điểm của mình đối với vụ án.

Tại bản tự khai ngày 30 tháng 6 năm 2022 cháu Đinh Đặng Nh trình bày: Bố mẹ cháu ly hôn cháu có nguyện vọng ở với mẹ.

Tại biên bản làm việc ngày 29-6-2022 ông Đinh Văn Ch là bố đẻ của anh Đinh Văn Ph cung cấp: Ông là bố đẻ của anh Đinh Văn Ph, vợ chồng anh Ph, chị Ng kết hôn vào năm 2001. Sau khi cưới vợ chồng chị Ng về nhà mẹ đẻ của chị Ng ở, vợ chồng chị Ng mâu thuẫn chỉ là những mâu thuẫn nhỏ trong gia đình nhưng chị Nguyệt lại xác định chị không còn tình cảm với anh Phúc. Nay chị Ng xin ly hôn ông xác định vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ; đề nghị Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật. Vợ chồng anh Ph có 02 con chung cháu lớn đã đủ 18 tuổi còn cháu thứ hai sinh năm 2012 đang ở cùng chị Ngt cháu có nguyện vọng ở với bố hay ở với mẹ gia đình ông cũng nhất trí. Còn anh Ph đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang sống cùng nhà với ông tại xóm X, xã Gi. Anh Ph làm nghề tự do nhưng vẫn thường xuyên về nhà; các văn bản tố tụng của Tòa án ông đã nhận và đã thông báo cho anh Ph biết nhưng do bận công việc nên anh Ph không về Toà án để giải quyết vụ án được.

Theo biên bản xác minh thu thập chứng cứ ngày 22-7-2022, đại diện đoàn thể, đại diện chính quyền xã Gi cung cấp: Chị Trần Thị Ng và anh Đinh Văn Ph đăng ký kết hôn tại UBND xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định vào ngày 26-11-2001. Sau khi cưới vợ chồng mâu thuẫn do anh Ph không tu chí làm ăn, vợ chồng anh Ph có thời gian sống ly thân sau đó lại đoàn tụ. Nay chị Ng có đơn ly hôn đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn của vợ chồng theo quy định của pháp luật. Vợ chồng có 02 con chung là Đinh Văn L, sinh ngày 20-6-2002; và Đinh Đặng Nh, sinh ngày 07- 01-2012, cháu L đã đủ 18 tuổi trưởng thành, lao động tự lập được còn cháu Nh đang ở cùng chị Ng do anh Ph thường đi làm ở xa vợ chồng ly hôn nên giao con chung cho chị Ng tiếp tục nuôi dưỡng còn mức cấp dưỡng do các bên đương sự thỏa thuận.Vợ chồng không vướng mắc gì về kinh tế, tài sản đối với tập thể.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Thẩm phán, HĐXX, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Vợ chồng chị Trần Thị Ng và anh Đinh Văn Ph, mâu thuẫn đã trầm trọng khả năng đoàn tụ không còn, nên có đủ cơ sở để giải quyết ly hôn. Về con chung chưa thành niên hiện do chị Ng đang nuôi dưỡng, vì vậy nên giao con chung cho chị Ng tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Trần Thị Ng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn anh Đinh Văn Ph đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng anh Ph vẫn vắng mặt không có lý do, căn cứ vào Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị Ng và anh Đinh Văn Ph đã tự nguyện tìm hiểu và đã đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Gi, huyện Gi, tỉnh Nam Định vào ngày 26-11-2001 là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau ngày cưới, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, do anh Phúc không tu chí làm ăn. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2006 cho đến năm 2021 thì quay lại với nhau nhưng anh Phúc không thay đổi. Chị Ng có nguyện vọng ly hôn, sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy đã làm đầy đủ các thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho anh Ph, nhưng anh Ph không đến Tòa án để giải quyết vụ án. Như vậy chứng tỏ anh Ph không tha thiết đến cuộc sống chung của vợ chồng nữa. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị Ng và anh Ph mâu thuẫn đã trầm trọng, nếu kéo dài cũng không mang lại hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt.Vì vậy chấp nhận nguyện vọng của chị Ng xin ly hôn anh Phúc là phù hợp với Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là Đinh Văn L ,sinh ngày 20-6- 2002; và Đinh Đặng Nh, sinh ngày 07-01-2012, hiện nay con Đinh Văn L đã đủ 18 tuổi trưởng thành lao động tự lập được chị không yêu cầu Toà án giải quyết về nuôi dưỡng, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Còn đối với cháu Đinh Đặng Nh, sinh ngày 07-01-2012, hiện đang ở cùng chị Ng. Xét nguyện vọng của chị Ng và con chung, nên giao con chung cho chị Ng tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Ng không yêu cầu nên anh Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Ng, nhưng anh Ph được quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

[5] Về tài sản: Chị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét điều chỉnh.

[6] Về án phí: Chị Nguyệt phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[7] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147; 238 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Xử ly hôn giữa chị Trần Thị Ng và anh Đinh Văn Ph.

2.Về con chung: Giao chị Trần Thị Ng tiếp tục trực tiếp nuôi con chung chưa thành niên là Đinh Đặng Nh, sinh ngày 07 tháng 01 năm 2012 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Anh Đinh Văn Ph không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho chị Ng, nhưng anh Ph có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3.Về án phí: Chị Trần Thị Ng phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm là: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Ng đã nộp theo biên lai thu số 0000172 ngày 07-6-2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy nay được chuyển thành án phí.

4.Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị Ng và anh Đinh Văn Ph có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và nuôi con chung số 65/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:65/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về