Bản án về ly hôn và giao con khi ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẮC NINH, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/08/2022 VỀ LY HÔN VÀ GIAO CON KHI LY HÔN

Ngày 29/8/2022 tại trụ sở, Toà án nhân dân thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà sơ thẩm xét xử công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 209/2022/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 04 năm 2022 về việc “Ly hôn và giao con chung khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2022/QĐST- HNGĐ ngày 08/07/2022 giữa:

+ Nguyên đơn: Anh Nguyễn Việt K- Sinh năm 1976.

HKTT: Tập thể trường sỹ quan Chính trị, khu 4, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Trú tại: Số 171, N, phường VC, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (có mặt).

+ Bị đơn: Chị Nguyễn Thanh H- Sinh năm 1986 HKTT: Tập thể trường sỹ quan Chính trị, khu 4, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Nơi thường xuyên sinh sống và cư trú cuối cùng: Số 171, N, phường VC, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh (chị H đã được thông báo và niêm yết giấy triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng hay vì sự kiện bất khả kháng).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn ly hôn, ý kiến trình bày của anh K và các tài liệu có trong hồ sơ, nội dung vụ án tóm tắt như sau:

Sau thời gian tìm hiểu, ngày 21/04/2011 anh và chị Nguyễn Thanh H tiến tới hôn nhân, quan hệ hôn nhân giữa anh và chị H xuất phát trên cơ sở tự nguyện, tuân thủ các điều kiện kết hôn và được UBND phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh làm thủ tục kết hôn và cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn.

Sau khi kết hôn vợ chồng sống cùng gia đình bố mẹ chồng tại khu tập thể Trường sỹ quan Chính trị, thuộc khu 4, phường V, thành phố Bắc Ninh, sống cùng nhà chồng đến năm 2017 thì vợ chồng chuyển ra sống tại số 171, đường N, phường VC, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình chung sống, đời sống tình cảm vợ chồng không hạnh phúc, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, không có sự chia sẻ bàn bạc trong làm ăn phát triển kinh tế, mọi việc làm ăn, đầu tư chị H đều tự ý quyết định dẫn đến tài sản gia đình bị phát tán, song vì các con anh nhẫn nhịn, bỏ qua. Cuối tháng 10/2021, chị H một lần nữa lại lừa dối chồng, con lấy toàn bộ tiền, vàng để trong két của gia đình đem đầu tư, chơi bời dẫn đễn vợ chồng to tiếng, chị H bỏ về nhà bố mẹ là ông Nguyễn Xuân Trường có địa chỉ tại: Số 386, đường Thiên Đức, phường V Thành phố Bắc Ninh sống để lại 03 con chung cho anh chăm sóc, anh và chị H ly thân từ đó. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, cuộc sống chung không thể kéo dài, anh K đề nghị tòa án giải quyết cho anh ly hôn với chị Nguyễn Thanh H.

Về con chung: Vợ chồng có với nhau 03 con chung là Nguyễn H Anh, sinh ngày 28/01/2012, Nguyễn H Linh, sinh ngày 31/12/2014 và Nguyễn Hữu K, sinh ngày 23/01/2021, hiện cả 03 con đang ở với anh. Nếu vợ chồng ly hôn, anh K đề nghị tòa án giao cả 03 con chung cho anh chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Về đóng góp phí tổn nuôi con: Anh K không yêu cầu chị H phải đóng góp.

Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức đóng góp, anh K trình bày: Trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng không tạo dựng được tài sản gì lớn, vợ chồng không vay mượn ai tiền bạc, không có trách nhiệm dân sự với bất cứ tổ chức, cá nhân nào, anh K không đề nghị tòa giải quyết phân chia tài sản khi ly hôn.

Sau khi nhận và thụ lý đơn khời kiện, tòa án đã gửi cho chị H thông báo thụ lý vụ án và gửi giấy triệu tập song chị H không đến làm việc. Do chị H không đến làm việc nên tòa đã trực tiếp làm việc với ông Nguyễn Xuân Trường là bố để chị H, quá trình làm việc ông Trường cho biết: Chị Nguyễn Thanh H con gái ông, chị H có mâu thuẫn với chồng là anh Nguyễn Việt K nên chị H có về nhà ông ở một vài ngày, sau đó chị H bỏ ta ngoài sống, hiện nay chị H ở đâu, làm gì gia đình ông không nắm được, gia đình ông sẽ có trách nhiệm thông báo cho chị H đến tòa án làm việc (ông Trường không ký biên bản làm việc).

Quá trình tố tụng và tại phiên tòa, mặc dù đã được tòa án thông báo và triệu tập chị H vẫn không đến làm việc và tham gia phiên tòa. Căn cứ qui định của BLTTDS tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng đối với chị H tại trụ sở tòa án, tại trụ sở UBND phường VC và tại nơi thường xuyên sinh sống đòng thời là nơi cư trú cuối cùng của chị H tại số 171, đường N, phường VC, thành phố Bắc Ninh song chị H vẫn vắng mặt.

Tại phiên tòa Anh Nguyễn Việt K giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, đề nghị hội đồng xét xử giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thanh H và giao 03 con chung là cháu Nguyễn H Anh, sinh ngày 28/01/2012, Nguyễn H Linh, sinh ngày 31/12/2014 và Nguyễn Hữu K, sinh ngày 23/01/2021 cho anh chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục khi ly hôn. Về trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con: Anh K không yêu cầu chị H phải đóng góp. Ngoài 02 yêu cầu như đã nêu, anh K không còn bất cứ yêu cầu nào khác.

Tại phiên tòa chị Nguyễn Thanh H đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ 2 nhưng vắng mặt không có lý do chính đáng hay vì sự kiện bất khả kháng.

Cũng tại phiên tòa sau khi đánh giá việc chấp hành và thực hiện pháp của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án trong quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa là nghiêm túc; Việc chấp hành và thực hiện pháp luật của nguyên đơn là đúng pháp luật, của bị đơn là chưa thực hiện đúng và đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Về nội dung, đại điện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của anh Nguyễn Việt K, cụ thể:

- Về quan hệ hôn nhận: Xử cho anh Nguyễn Việt K ly hôn với chị Nguyễn Thanh H.

- Về con chung: Giao 03 con chung là Nguyễn H Anh, sinh ngày 28/01/2012, Nguyễn H Linh, sinh ngày 31/12/2014 và Nguyễn Hữu K, sinh ngày 23/01/2021 cho anh Nguyễn Việt K chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục khi ly hôn; Về đóng góp phí tổn nuôi con: Anh K không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết - Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Các bên không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết hợp với kết quả thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

1. Về tố tụng: Căn cứ nội dung yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Việt K thấy anh K yêu cầu tòa án giải quyết cho ly hôn với chị Nguyễn Thanh H và giao các con chung cho anh chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục khi ly hôn. Căn cứ nội dung yêu cầu khởi kiện của anh K, nguyên nhân xảy mâu thuẫn của vợ chồng, hội đồng xét xử xác định quan hệ tranh chấp giữa anh K và chị H là “Tranh chấp ly hôn và giao con chung khi ly hôn”. Tòa án nhân dân thành phố Bắc Ninh thụ lý, giải quyết vụ án là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của BLTTDS.

Quá trình tố tụng chị Nguyễn Thanh H đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến làm việc và tham gia phiên tòa, song chị H đều vắng mặt. Xét sự vắng mặt của chị H không vì lý do chính đáng hay vì sự kiện bất khả kháng, căn cứ khoản 1 Điều 228 của BLTTDS, hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị H theo quy định của pháp luật.

2. Về nội dung: Anh Nguyễn Việt K và chị Nguyễn Thanh H kết hôn ngày 21/04/2011, được UBND phường V, thành phố Bắc Ninh (nơi hai người đăng ký hộ khẩu thường trú) làm thủ tục kết hôn và cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa anh K và chị H là hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng sống cùng gia đình nhà chồng tại khu tập thể Trường sỹ quân chính trị, thuộc khu 4, phường V, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh, đến năm 2017 vợ chồng chuyển về sống tại: Số 171, đường N, thuộc phường VC, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh. Quá trình chung sống, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, vợ chồng đã ly thân từ tháng 10/2021 đến nay. Xét tình cảm giữa anh K và chị H không còn, cuộc sống chung không thể tiếp tục kéo dài, mục đích xây dựng gia đình ấm no, hòa thuận, hạnh phúc không đạt được nên chấp nhận yêu cầu của anh K, xử cho anh Nguyễn Việt K ly hôn với chị Nguyễn Thanh H.

+ Về con chung: Anh K và chị H có với nhau 03 con chung là Nguyễn H Anh, sinh ngày 28/01/2012, Nguyễn H Linh, sinh ngày 31/12/2014 và Nguyễn Hữu K, sinh ngày 23/01/2021. Xét điều kiện chăm sóc, nuôi con của anh K và chị H thấy: Vợ chồng có 03 con chung, trong đó có 01 con chung là cháu Nguyễn Hữu K chưa đủ 36 tháng tuổi, về nguyên tắc khi giao con chung khi ly hôn đối với con chung dưới 36 tháng tuổi phải giao cho mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng. Song xét điều kiện hoàn cảnh cụ thể của vợ chồng thấy, sau khi vợ chồng ly thân chị H chuyển ra ngoài sống thì hiện cả 3 con chung đang do anh K người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, bản thân chị H hiên nay không biết ở đâu, làm gì, điều kiện sống và thu nhập thế nào, do vậy để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển bình thường của các con chung, cần giao cả 03 con chung cho anh K chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục khi ly hôn.

Về đóng góp phí tổn nuôi con: Quá trình tố tụng và tại phiên tòa anh K không yêu cầu chị H phải đóng góp phí tổn nuôi con, xét việc không yêu cầu đóng góp phí tổn nuôi con của anh K là tự nguyện nên không đặt ra giải quyết.

+ Về tài sản chung, công nợ và trích chia công sức: Các bên không yêu cầu nên không giải quyết.

3. Về án phí: anh K phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 và Điều 57, Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 143, 144, 146, 147, 228, 235, 271 và 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Việt K.

* Về quan hệ hôn nhân: Xử cho anh Nguyễn Việt K ly hôn với chị Nguyễn Thanh H.

* Về con chung: Giao cả 3 con chung là Nguyễn H Anh, sinh ngày 28/01/2012, Nguyễn H Linh, sinh ngày 31/12/2014 và Nguyễn Hữu K, sinh ngày 23/01/2021 cho anh Nguyễn Việt K chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục khi ly hôn; Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con không ai được cản trở.

* Về đóng góp phí tổn nuôi con: Anh K không yêu cầu chị H phải đóng góp phí tổn nuôi con nên không đặt ra giải quyết.

* Về tài sản chung, công nợ, trích chia công sức: Các bên không yêu cầu nên không đặt ra giải quyết.

2. Về án phí: Anh Nguyễn Việt K phải chịu 300.000đ án phí HNGĐ sơ thẩm. Xác nhận anh K đã nộp đủ án phí HNGĐ sơ thẩm theo Biên lai thu số AA/2021/0001179 ngày 18/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bắc Ninh.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Nguyễn Việt K có mặt, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Chị Nguyễn Thanh H vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và giao con khi ly hôn số 50/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:50/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bắc Ninh - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:29/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về