Bản án về ly hôn và con chung số 02/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VINH, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 02/2024/HNGĐ-ST NGÀY 08/01/2024 VỀ LY HÔN VÀ CON CHUNG

Ngày 08 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vinh mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 292/2024/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2024 về “Ly hôn, con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 19/12/2023 3 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Ngọc L, sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT: Khối Y, phường V, thành phố V, tỉnh Nghệ An; Địa chỉ: Nhà số D, Nguyễn Tuấn T1, phường L, thành phố V, tỉnh Nghệ An; Có mặt tại phiên tòa;

Bị đơn: Anh Ngô Ngọc T2, sinh năm 1988; Nơi ĐKHKTT: Khối Y, phường V, thành phố V, tỉnh Nghệ An; Hiện đang chấp hành án tại Trại giam S, đội 42, phân trại 2, T, Nghệ An; Vắng mặt tại phiên tòa; Có Đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và những lời trình bày của chị Nguyễn Thị Ngọc L thì: Chị và anh Ngô Ngọc T2 lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 04/11/2015 tại Ủy ban nhân dân phường V, thành phố V, tỉnh Nghệ An. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống được 8 năm hòa thuận, hạnh phúc. Đến năm 2021, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T2 giao lưu với bạn bè xấu, không quan tâm, yêu thương gia đình, vi phạm pháp luật hình sự, cũng từ đó vợ chồng sống ly thân vì anh T2 phải đi chấp hành hình phạt tù. Do sống xa nhau một thời gian dài nên không còn tình cảm vợ chồng. Nay, tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Vinh giải quyết ly hôn với anh T2. Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Ngô Đức T3, sinh ngày 26/12/2015, hiện nay con chung đang do chị L nuôi dưỡng, nếu ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Chị L và anh T2 không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo Bản tự khai ngày 11/12/2023, bị đơn là anh Ngô Ngọc T2 trình bày: Về thời gian kết hôn, thủ tục kết hôn, thời gian xảy ra mâu thuẫn đúng như chị L trình bày. Sau ngày kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau một thời gian thì anh T2 vướng vào pháp luật, phải đi chấp hành án phạt tù. Cũng từ đó sống ly thân. Tình cảm vợ cảm vợ chồng không còn nữa nên Chị L yêu cầu ly hôn, anh cũng đồng ý. Về con chung: Vợ chồng có một con chung là Ngô Đức T3, sinh ngày 26/12/2015, anh nhất trí ý kiến của chị L là giao con chung cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng. Về tài sản chung và nợ chung: chị L và anh không có tài sản chung và nợ chung.

Tòa án tiến hành xác minh tại chính quyền địa phương nơi chị L sinh sống (Biên bản xác minh của Tòa án tại Ủy ban nhân dân phường L) thể hiện kết quả: Chị L và con có sinh sống tại phường L Thời gian gần đây thì không thấy anh T2 sinh sống tại địa phương nữa, chỉ thấy chị L và con. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng chính quyền địa phương không biết và không nắm.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Vinh phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, thẩm phán đã tuân thủ đúng các quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự; việc thụ lý và giải quyết đúng vụ án đúng quy định tại Điều 28, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự; xác định đúng tư cách đương sự, thời hạn chuẩn bị xét xử đảm bảo đúng quy định. Hội đồng xét xử cũng đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Nguyễn Thị Ngọc L được ly hôn anh Ngô Ngọc T2. Về con chung: giao hai con chung cho chị L được trực tiếp chăm sóc. Về tài sản chung, nợ chung: không xem xét. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng: Đây là vụ án về tranh chấp hôn nhân và gia đình, bị đơn là anh Ngô Ngọc T2 có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại thành phố V, tỉnh Nghệ An. Vì vậy Tòa án nhân dân thành phố Vinh thụ lý và giải quyết vụ án đúng thẩm quyền quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành thông báo thụ lý vụ án, triệu tập nguyên đơn, bị đơn để lấy lời khai, công khai chứng cứ, chị L có mặt, anh T2 hiện đang chấp hành án tại Trại giam S, đội 42, phân trại 2, T, Nghệ An nên vắng mặt, Anh T2 có trình bày bản tự khai và làm Đơn xin Tòa án giải quyết, xét xử vắng mặt. Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật cho anh T2 theo quy định tại Điều 22 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Tuy nhiên, do đang chấp hành án phạt tù nên anh T2 vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng bị đơn.

[2]. Về nội dung vụ án:

2.1. Quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Ngọc L và anh Ngô Ngọc T2 là hợp pháp, vì kết hôn tự nguyện, được Ủy ban nhân dân có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn, không vi phạm các điều kiện cấm kết hôn theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị L và anh T2 là hợp pháp nên được pháp luật công nhận, bảo vệ.

2.2. Xét yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Ngọc L thấy: Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống được 6 năm hòa thuận, hạnh phúc. Đến năm 2021, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh T2 giao lưu với bạn bè xấu, không quan tâm, yêu thương gia đình, vi phạm pháp luật hình sự, cũng từ đó vợ chồng sống ly thân vì anh T2 phải đi chấp hành hình phạt tù. Do sống xa nhau một thời gian dài nên không còn tình cảm vợ chồng. Nay, tình cảm vợ chồng không còn nữa, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Vinh giải quyết ly hôn với anh T2. Anh T2 biết việc chị L yêu cầu ly hôn, anh cũng đồng ý, xác định tình cảm vợ cảm vợ chồng không còn nữa. Như vậy, có thể khẳng định cuộc sống hôn nhân giữa chị L và anh T2 thực tế không còn tồn tại, tình trạng hôn nhân của vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần căn cứ Điều 53, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị L, xử cho chị L được ly hôn anh T2.

2.3. Về con chung: Vợ chồng chị Nguyễn Thị Ngọc L và anh Ngô Ngọc T2 có một con chung là Ngô Đức T3, sinh ngày 26/12/2015, hiện nay con chung đang do chị L nuôi dưỡng, nếu ly hôn chị có nguyện vọng được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Tòa án xét thấy, hiện nay anh T2 đang chấp hành hình phạt tù, ko đủ điều kiện để nuôi con nên giao con chung cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với nguyện vọng, cấp dưỡng nuôi con chung: chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2.4. Về tài sản chung, nợ chung: chị Nguyễn Thị Ngọc L và anh Ngô Ngọc T2 đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Ngọc L phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.

Xét đề nghị nêu trên của Việt kiểm sát nhân dân thành phố V thấy phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Nguyễn Thị Ngọc L:

- Về quan hệ hôn nhân: chị Nguyễn Thị Ngọc L được ly hôn anh Ngô Ngọc T2.

- Về con chung: Giao con chung là Ngô Đức T3, sinh ngày 26/12/2015 cho chị Nguyễn Thị Ngọc L được chăm sóc, giáo dục con chung đến khi trưởng thành; Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Ngô Ngọc T2 có quyền thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Nếu anh T2 lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị L có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của anh T2.

- Về tài sản chung, nợ chung: không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Ngọc T phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng chị L đã nộp theo Biên lai thu số 0004009 ngày 31/10/2023 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vinh. Chị Nguyễn Thị Ngọc L đã nộp đủ tiền án phí.

3. Về quyền kháng cáo: chị Nguyễn Thị Ngọc L có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh Ngô Ngọc T2 có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày kể từ ngày nhận được Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn và con chung số 02/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vinh - Nghệ An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về