Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 203/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HOÀI ÂN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 203/2021/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON

Ngày 25/8/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 47/2020/TLST-HNGĐ ngày 03/12/2020, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 137/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 24/6/2021, Quyết định hoãn phiên tòa số: 38/2021/QĐST-HNGĐ ngày 12/7/2021, giữa các bên đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1981;

Địa chỉ: thôn V, xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

2. Bị đơn: Ông Lê A, sinh năm 1976;

Địa chỉ: thôn V, xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định.

Nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện ngày 29/11/2020 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn bà Phạm Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Bà và ông Lê A quen biết nhau, có tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Ân Hảo Đông, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định vào ngày 11/7/2011. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống tại thành phố Hồ Chí Minh. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhưng khoảng một năm sau khi chung sống, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do tính tình không hợp nhau, ông A thường xuyên ăn nhậu rồi đánh đập bà, làm cho con hoảng sợ, dùng dao đe dọa bà nhiều lần, không chăm lo cho gia đình. Nay, xét thấy không còn tình cảm nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông Lê A.

Về con chung: Vợ chồng bà có 01 con chung tên Lê Thị Kim N, sinh ngày 06/02/2014, đang ở với bà, nay bà yêu cầu Tòa án tiếp tục giao con cho bà nuôi dưỡng; không yêu cầu ông Lê A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Đối với bị đơn ông Lê A: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thực hiện thủ tục tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập, thông báo phiên họp công khai chứng cứ và hòa giải, theo quy định tại Điều 177; 179 của Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng ông A không đến Tòa án trình bày ý kiến và hòa giải, nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến của ông. Do đó, Tòa án vẫn tiến hành các thủ tục tố tụng và đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

- Đại diện Viện kiểm sát huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Trong giai đoạn thụ lý hồ sơ, chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay Thẩm phán, Thư ký và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thời hạn chuẩn bị xét xử còn kéo dài.

Về hôn nhân: Xét thấy, tình cảm vợ chồng bà Phạm Thị T, ông Lê A không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, cho bà Phạm Thị T ly hôn ông Lê A.

Về con chung: Đề nghị giao 01 con chung tên Lê Thị Kim N, sinh ngày 06/02/2014 cho bà Phạm Thị T tiếp tục nuôi dưỡng. Do bà T không yêu cầu ông A cấp dưỡng nuôi con, nên không buộc ông A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng, Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân nhận định.

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Phạm Thị T có đơn yêu cầu ly hôn ông Lê A. Đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn ông Lê A có hộ khẩu thường trú tại xã Ân Hảo Tây, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Hoài Ân.

Tại phiên tòa hôm nay, ông Lê A được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn vắng mặt, ông A không có yêu cầu phản tố; bà Phạm Thị T có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông A, bà T.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị T và ông Lê A quen biết nhau, có tìm hiểu và tự nguyện đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Ân Hảo Đông, huyện Hoài Ân, tỉnh Bình Định vào ngày 11/7/2011, nên hôn nhân của vợ chồng ông bà là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sinh sống và làm việc tại TP.Hồ Chí Minh. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhưng khoảng một năm sau khi chung sống, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Theo bà T trình bày, vợ chồng bà phát sinh mâu thuẫn là do tính tình không hợp nhau, ông A thường xuyên ăn nhậu rồi đánh đập bà, làm cho con hoảng sợ, dùng dao đe dọa bà nhiều lần, không chăm lo cho gia đình. Bà và ông A đã không còn chung sống với nhau từ năm 2020. Nay, bà T yêu cầu ly hôn ông A là có căn cứ để chấp nhận.

Còn đối với bị đơn ông Lê A: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án, đã tiến hành các thủ tục thông báo thụ lý và thông báo các phiên họp công khai chứng cứ, hòa giải hợp lệ, nhưng tất cả các buổi làm việc tại Tòa án ông A đều vắng mặt. Tại phiên tòa hôm nay, ông A cũng không có mặt, điều này chứng tỏ ông A cũng không muốn níu kéo tình cảm vợ chồng, không muốn níu kéo cuộc hôn nhân của ông bà.

Xét thấy, tình cảm vợ chồng bà Phạm Thị T và ông Lê A mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cho dù có kéo dài cuộc sống vợ chồng cũng không hạnh phúc và thực tế họ đã không còn chung sống với nhau từ năm 2020, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn là phù hợp với quy định tại các Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[3] Về con chung: Bà Thảo, ông Ánh có 01 con chung tên Lê Thị Kim N, sinh ngày 06/02/2014; cháu N hiện đang được bà T nuôi dưỡng ổn định, nên cần tiếp tục giao cho bà nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Phạm Thị T không yêu cầu ông Lê A cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Phạm Thị T không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Đối với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoài Ân là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên chấp nhận.

[7] Về án phí: Bà Phạm Thị T phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm, theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 266; khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51; Điều 56; 81; 82; 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn;

Bà Phạm Thị T được ly hôn ông Lê A.

2. Về con chung: Giao 01 con chung tên Lê Thị Kim N, sinh ngày 06/02/2014, cho bà Phạm Thị T tiếp tục nuôi dưỡng. Ông Lê A được quyền đi lại, thăm nom, chăm sóc con chung, không ai được ngăn cản.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Không xem xét.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.

5. Về án phí: Án phí ly hôn sơ thẩm, bà Phạm Thị T phải nộp 300.000 đồng, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0001826 ngày 01/12/2020, của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hoài Ân.

6. Quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án theo quy định, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

344
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 203/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:203/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoài Ân - Bình Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về