Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 202/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ H

BẢN ÁN SỐ 202/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 273/2022/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 7 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 218/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lương Thị B, sinh năm 1999; Địa chỉ: Thôn T, xã H, huyện T, thành phố H. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Vũ Thế A, sinh năm 1994; Hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã H, huyện T, thành phố H. Hiện đang chấp hành án phạt tù tại Đội N, Phân trại số H, Trại giam X. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 05/4/2022 và các lời khai tại Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lương Thị B trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị kết hôn với anh Vũ Thế A từ năm 2019 trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 15/3/2019 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố H. Sau khi kết hôn, chị chuyển khẩu về gia đình anh Vũ Thế A sinh sống tại thôn T, xã H. Quá trình chung sống đến cuối năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân là do anh A chơi bời nghiện hút và còn có quan hệ ngoại tình. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình tham gia hòa giải nhưng không có kết quả. Ngày 14/3/2020, anh Vũ Thế A vi phạm pháp luật bị bắt tạm giam và bị Tòa án xử phạt 07 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, hiện đang chấp hành án tại trại giam X. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Vũ Thế A.

- Về con chung: Chị và anh Vũ Thế A có một con chung tên là Vũ Bảo M, sinh ngày 20/7/2019. Chị trực tiếp nuôi dưỡng con chung từ cuối năm 2019 đến nay, con khỏe mạnh và phát triển bình thường. Ly hôn, chị đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị và anh A không có tài sản chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 26/8/2022, bị đơn là anh Vũ Thế A trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh công nhận lời trình bày của chị B về điều kiện, thời gian và nơi đăng ký kết hôn như trên là đúng. Quá trình chung sống vợ chồng có nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh. Ngày 14/3/2020, anh vi phạm pháp luật, bị tạm giam và bị Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H xử phạt 07 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, hiện anh đang chấp hành án tại trại giam X. Nay chị B xin ly hôn, anh đồng ý ly hôn với chị B.

- Về con chung: Anh công nhận anh và chị B có một con chung như chị B trình bày như trên là đúng. Do hiện nay anh đang chấp hành án phạt tù tại trại giam, không có khả năng trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng con chung nên anh đồng ý để chị B trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung: Anh và chị B không có tài sản chung nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa: Kiểm sát viên phát biểu ý kiến trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo đúng pháp luật tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 51, 56, 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lương Thị B và anh Vũ Thế A.

- Về con chung: Giao cho chị Lương Thị B trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Vũ Bảo M, sinh ngày 20/7/2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

- Về cấp dưỡng nuôi con chung và tài sản chung: Đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về án phí: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố H theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn là chị Lương Thị B và bị đơn là anh Vũ Thế A vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị Lương Thị B và anh Vũ Thế A đã xác lập là hợp pháp (Giấy chứng nhận kết hôn số 20 đăng ký ngày 15/3/2019 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện T, thành phố H). Căn cứ vào lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh thể hiện quá trình chung sống giữa chị B và anh A có phát sinh mâu thuẫn từ cuối năm 2019. Tháng 3/2020, anh A vi phạm pháp luật bị bắt tạm giam và đã bị kết án phạt tù, hiện đang chấp hành án tại trại giam. Anh Vũ Thế A đã vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, vì vậy việc xin ly hôn của chị B với anh A là phù hợp với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát và phù hợp với tình trạng thực tế của vợ chồng, phù hợp với quy định tại các điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[3]. Về con chung: Chị B với anh A có một con chung tên là Vũ Bảo M, sinh ngày 20/7/2019. Việc giao con cho ai nuôi cần phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con. Xét thấy, lời khai của đương sự và tài liệu điều tra xác minh thể hiện chị B trực tiếp nuôi con từ cuối năm 2019 đến nay và việc nuôi con đã ổn định, anh A đang chấp hành án phạt tù tại trại giam không có điều kiện nuôi con, chị B đề nghị được tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Vì vậy, giao con chung cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện thực tế và phù hợp với quy định tại các điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị B và anh A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về tài sản chung: Chị B và anh A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6]. Về án phí: Chị B phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Lương Thị B và anh Vũ Thế A.

2. Về con chung: Giao cho chị Lương Thị B trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên là Vũ Bảo M, sinh ngày 20/7/2019 cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Lương Thị B và anh Vũ Thế A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Chị Lương Thị B và anh Vũ Thế A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí: Chị Lương Thị B phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008094 ngày 26 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố H. Chị Lương Thị B đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn là chị Lương Thị B và bị đơn là anh Vũ Thế A vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

21
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 202/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:202/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về