Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN KRÔNG BÔNG, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 07/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/06/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VỀ NUÔI CON 

Vào ngày 17 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 150/2021/TLST- HNGĐ ngày 08 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 08/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 5 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 13 / 2 0 2 2 /QĐST-HNGĐ ngày 03 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Võ Thị Th, sinh năm 1986 (có mặt) Địa chỉ: Buôn A, xã C, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk.

* Bị đơn: Anh Đỗ Thanh C, sinh năm 1988 (có mặt) Địa chỉ: Buôn A, xã C, huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 08/10/2021 cũng như trong quá trình tham gia tố tụng tại toà án, nguyên đơn Võ Thị Th trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đỗ Thanh C chung sống với nhau có đăng ký kết hôn tại UBND xã E, huyện P, tỉnh Đắk Lắk vào năm 2017. Quá trình chung sống, vợ chồng không hợp nhau về tính cách, anh C hay chơi bài bạc, cá độ bóng đá, thường xuyên say xỉn, chửi bới, ghen tuông vô cớ rồi xúc phạm, đánh đập chị thậm tệ, còn dùng dao đòi chém, đòi giết chị, quát nạt con khiến cháu sợ hãi, khóc thét. Mặc dù gia đình hai bên khuyên nhủ, hòa giải nhưng anh C vẫn chứng nào tật đó, vợ chồng không hòa thuận, hạnh phúc. Nay chị không còn tình cảm gì với anh C, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.

Về con chung: Chị và anh Đỗ Thanh C có 01 con chung là Đỗ Thành P, sinh ngày 22/02/2018. Chị có nguyện vọng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục Đỗ Thành P cho đến khi cháu đủ 18 tuổi. Vì chị có thời gian chăm sóc cháu còn anh C thường xuyên đi chơi thâu đêm, rượu chè, bài bạc, còn bạo lực nên giao cháu P cho anh C, chị không yên tâm, cháu sẽ không được chăm sóc, dạy dỗ tốt.

Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, bị đơn Đỗ Thanh C trình bày: Anh và chị Võ Thị Th chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện P, tỉnh Đắk Lắk vào tháng 3/2017.

Vợ chồng chung sống hầu như không có hạnh phúc, thỉnh thoảng anh có nhậu nhẹt và mẫu thuẫn với em vợ nên vợ chồng cãi vã, anh có chửi bới, tát chị Th nhiều lần nhưng đánh thì không quá 3 lần, anh chơi bài bạc, cá độ, đi hát karaoke đến khoảng 11 – 12 giờ đêm là về, tuần anh uống rượu khoảng 3 – 4 lần, chứ không đi thường xuyên như chị Th trình bày. Chị Th hay cằn nhằn, gây sự thì vợ chồng cãi cọ, xúc phạm lẫn nhau, quá bực tức anh có tát chị Th. Nay vợ chồng không còn tình cảm, chung sống mà không có hạnh phúc, chị Th xin ly hôn thì anh đồng ý ly hôn.

Về con chung: Anh chị có 01 con chung là Đỗ Thành P, sinh ngày 22/02/2018. Trong cách nuôi dạy con, lâu lâu bố con chơi với nhau cháu đùa giỡn hơi quá anh có la mắng cháu chứ không dọa nạt. Anh C làm nghề sửa chữa điện lạnh, mỗi tháng thu nhập khoảng 10.000.000 (mười triệu) đồng, anh là người lo chi phí sinh hoạt của gia đình cũng như tiền mua sữa, tiền ăn của cháu P, do cháu chưa đi học nên anh ở nhà vừa làm vừa trông nom cháu, khi bận thì gửi cháu cho bà ngoại (mẹ chị Th) trông giúp. Hiện nay anh chị đang ở trên đất của bố mẹ chị Th. Khi ly hôn, anh sẽ ra ở trọ và có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đỗ Thành P vì anh chăm sóc con tốt hơn và có điều kiện kinh tế hơn.

Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Anh không yêu cầu Toà án giải quyết.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cho thấy: Anh Đỗ Thanh C và chị Võ Thị Th thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh C uống rượu về đánh đập chị Th. Chị Võ Thị Th là người thường xuyên trông nom, chăm sóc cháu P, cháu được đảm bảo đầy đủ điều kiện ăn mặc, sinh hoạt đầy đủ.

Những người làm chứng là hàng xóm gần nhà anh C, chị Th trình bày: Anh Đỗ Thanh C và chị Võ Thị Th thường xảy ra mâu thuẫn. Anh C có tính gia trưởng, độc đoán, cộc cằn và nóng tính mỗi khi uống rượu. Anh C thường đi nhậu về đập phá đồ đạc và đánh chị Th.

Tại phiên tòa hôm nay:

- Nguyên đơn trình bày: Chị và anh Đỗ Thanh C chung sống không có hạnh phúc, anh C thường xuyên gây sự chửi bới, xúc phạm, đánh đập chị nên chị vẫn giữ nguyên yêu cầu ly hôn với anh C.

Về con chung: Chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đỗ Thành P, sinh ngày 22/02/2018 vì cháu còn nhỏ cần sự chăm sóc, dạy dỗ của người mẹ, bản thân chị có thu nhập và chỗ ở ổn định nên đảm bảo được các điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng cháu tốt nhất.

Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn trình bày: Về quan hệ hôn nhân, anh thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn do anh mâu thuẫn với gia đình bên vợ, vợ và gia đình coi thường anh nên anh bực tức, bức xúc về gây sự, chửi bới, đánh chị Th. Nay chị Th xin ly hôn thì anh đồng ý ly hôn. Về con chung, anh cho rằng chị Th không có trách nhiệm, thường bỏ bê con để đi chơi, mặt khác anh đang làm thợ điện lạnh, mở quán tại nhà và có thu nhập cao hơn chị Th (trung bình 10.000.000 đồng/tháng) nên đủ khả năng nuôi con. Trường hợp được nuôi con, anh sẽ nhờ bố mẹ hiện đang ở huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk hỗ trợ anh nuôi con và anh chuyển về ở cùng bố mẹ để tiếp tục làm việc. Vì vậy, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu P.

Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng: của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Đối với đương sự: Nguyên đơn, bị đơn đã được đảm bảo đầy đủ các quyền và lời ích hợp pháp theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51; Điều 56, Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Võ Thị Th.

Về hôn nhân: đề nghị cho chị Võ Thị Th được ly hôn với anh Đỗ Thanh C.

Về con chung: Đề nghị giao cháu Đỗ Thành P, sinh ngày 22/02/2018 cho chị Võ Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con và tài sản chung: Anh chị không yêu cầu nên không đặt ra để giải quyết.

Về án phí: Chị Võ Thị Th phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết “ly hôn và tranh chấp về con chung” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và các tài liệu đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định:

[2.1] Vào năm 2017, chị Võ Thị Th và anh Đỗ Thanh C tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện P, tỉnh Đắk Lắk đúng quy định của pháp luật, đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Chị Th cho rằng quá trình chung sống, anh C chơi bài bạc, cá độ bóng đá, thường xuyên say xỉn, ghen tuông vô cớ rồi xúc phạm, đánh đập chị thậm tệ, còn dùng dao đòi chém, giết chị, quát nạt con khiến cháu sợ hãi. Nay tình cảm vợ chồng đã không còn, cuộc sống chung không có hạnh phúc nên chị đề nghị được ly hôn với anh C.

Về phía anh C, anh thừa nhận vợ chồng chung sống hầu như không có hạnh phúc, có mâu thuẫn. Anh cho rằng nguyên nhân do thỉnh thoảng anh có nhậu nhẹt, mẫu thuẫn với gia đình bên vợ (mâu thuẫn với em vợ), thêm vào đó chị Th cằn nhằn thì vợ chồng cãi cọ, xúc phạm lẫn nhau, anh là người gây sự trước, anh có chửi bới, tát chị Th nhiều lần nhưng đánh thì không quá 3 lần. Chị Th yêu cầu ly hôn thì anh đồng ý ly hôn.

Xét thấy hai bên đều thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn, anh C thừa nhận có gây sự trước, có hành vi xúc phạm, đánh đập chị Th, đây là hành vi bạo lực gia đình. Cả hai đã không còn tình cảm, sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được và thống nhất ly hôn nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Võ Thị Th, là phù hợp với quy định tại khoản 1, khoản 3 Điều 56 của Luật hôn nhân gia đình.

[2.2] Về con chung: Anh chị có một con chung là cháu Đỗ Thành P, sinh ngày 22/02/2018. Cháu P mới hơn 4 tuổi, còn nhỏ, không thể tự lo được những sinh hoạt cá nhân, không tự chăm sóc được bản thân. Ngoài nhu cầu ăn, mặc, ở thì cháu càng cần có sự chăm sóc, dạy dỗ và giám sát thường xuyên của người lớn.

Chị Th hiện đang công tác tại trường học, có thu nhập (3.700.000 đồng/tháng) và có chỗ ở ổn định (nhà ở hiện nay), có sự hỗ trợ và giúp đỡ của gia đình trong việc trông nom cháu P (thể hiện qua việc anh C, chị Th đều khai khi bận thì nhờ bà ngoại giúp đỡ, trông nom cháu). Mặt khác chị Th là phụ nữ nên phù hợp hơn trong việc trông nom, chăm sóc, dạy dỗ con nhỏ.

Anh C là thợ sửa điện lạnh nhưng anh không chứng minh được thu nhập, anh cho rằng sau khi ly hôn anh sẽ giao nhà cho chị Th ở, bản thân anh thừa nhận thỉnh thoảng có chơi bài bạc, cá độ và uống rượu (trung bình 4 lần/tuần) và có hành vi bạo lực gia đình (đánh vợ), như vậy sẽ không đảm bảo việc trông nom, giám sát, nuôi nấng và dạy dỗ cháu P. Xét thấy việc giao cháu P cho chị Th trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc là đảm bảo điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, dạy dỗ tốt nhất cho cháu, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận yêu cầu của chị Th.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con cũng như tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[2.4] Về án phí: Nguyên đơn chị Võ Thị Th phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Xét đề nghị của Kiểm sát viên là phù hợp nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Căn cứ Điều 51; Điều 56, Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Võ Thị Th.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Võ Thị Th được ly hôn với anh Đỗ Thanh C.

2. Về con chung: Giao cháu Đỗ Thành P, sinh ngày 22/02/2018 cho chị Võ Thị Th trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi cháu đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Chị Võ Thị Th cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh Đỗ Thanh C thực hiện các quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị Võ Thị Th phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí toà án số 60AA/2021/0004932 ngày 04/11/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Đắk Lắk.

4. Đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

188
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp về nuôi con số 07/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:07/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Bông - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về