Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn số 59/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 59/2021/HNGĐ-ST NGÀY 22/12/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI DƯỠNG CON CHUNG KHI LY HÔN

Ngày 22 tháng 12 năm 2021. Tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 199/2021/TLST - HNGĐ ngày 19 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 22 tháng 11 năm 2021 và quyết định hoãn phiên tòa số 35/2021/QĐST - HNGĐ ngày 07/12/2021 giữa các đương sự:

1- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Ng.

Địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai - Có mặt tại phiên tòa.

2- Bị đơn: Anh Vũ Đình H.

Địa chỉ: Thôn L, xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai – Vắng mặt tại phiên tòa lần thứ 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14/10/2021 và các bản tự khai của chị Trương Thị Ng cùng toàn bộ tài liệu chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án thì chị Trương Thị Ng và anh Vũ Đình H về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2010 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện nhưng đến ngày 24/7/2013 mới đến đăng ký kết hôn tại ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau ngày cưới, vợ chồng về chung sống hoà thuận hạnh phúc đến tháng 9/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính dẫn đến việc chị Trương Thị Ng làm đơn xin ly hôn Vũ Đình H là do bất đồng quan điểm trong làm ăn và tạo dựng cuộc sống gia đình, nuôi dậy con cái, dẫn đến vợ chồng cãi chửi nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình. Khi mâu thuẫn sảy ra vợ chồng đã được gia đình, anh em khuyên giải nhiều lần nhưng đều không có kết quả. Anh Hiếu thường xuyên bỏ nhà đi không có trách nhiệm gì với gia đình vợ, con. Thực tế vợ chồng đã tự sống ly thân từ tháng 9/2018 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa. Đến nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị Trương Thị Ng có yêu cầu và nguyện vọng xin được ly hôn với anh Vũ Đình H.

Về con chung: Chị Trương Thị Ng xác nhận chị và anh Vũ Đình H, chung sống với nhau đến nay đã có 02 con chung.

Cháu lớn: Vũ Hải A - Sinh ngày: 16/6/2011; Cháu thứ hai: Vũ Hải Y - Sinh ngày: 07/8/2013.

Hiện nay các cháu đều khỏe mạnh phát triển bình thường không ốm đau bệnh tật gì và hiện tại các cháu đang ở với chị Trương Thị Ng tại thôn Làng Đền xã P huyện B, tỉnh Lào Cai. Khi ly hôn chị Trương Thị Ng có yêu cầu và nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 cháu Vũ Hải A và cháu Vũ Hải Y cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị Ngay không yêu cầu anh Vũ Đình H phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản chung: Chị Trương Thị Ng xác nhận trong thời gian chung sống chị và anh Vũ Đình H chưa tạo dựng được tài sản gì chung. Nên khi ly hôn chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về công nợ chung: Chị Trương Thị Ng xác nhận trong thời gian chung sống chị có vay của ngân hàng chính sách xã hội huyện B số tiền 50.000.000d (Năm mươi triệu đồng) lãi xuất 3,3%/năm, thời hạn vay đến năm 2028. Hiện nay số tiền này chưa đến hạn trả nợ và bản thân chị tự có trách nhiệm thanh toán trả cho ngân hàng khi đến hạn. Nên chị Trương Thị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Vũ Đình H trong quá trình giải quyết vụ án thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú, tại nơi cư trú bản thân anh không có ai là người thân thích, do vậy việc tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Vũ Đình H Tòa án không thể tiến hành được, Tòa án đã phải thực hiện việc niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật để anh Vũ Đình H thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Lào Cai tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án; Trình bày những quan điểm về xác định thẩm quyền thụ lý vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định tư cách người tham gia tố tụng và các biện pháp thu thập chứng cứ, trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa cũng như trong quá trình giải quyết vụ án. Tòa án đã thực hiện đầy đủ các bước thu thập chứng cứ theo đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành tốt các quy định của pháp luật, bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật cố tình trốn tránh, không chấp hành theo yêu cầu của Tòa án, gây khó khăn trong quá trình giải quyết vụ án. Tuy nhiên Tòa án đã tiến hành các biện pháp tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi nhận định đánh giá đại diện Viện kiểm sát đề nghị hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147; Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án. Đề nghị xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn xử cho Trương Thị Ng ly hôn với anh Vũ Đình H.

Về con chung: Xử giao cháu Vũ Hải A - Sinh ngày: 16/6/2011; Cháu: Vũ Hải Y - Sinh ngày: 07/8/2013 cho chị Trương Thị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Vũ Đình H không phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản và công nợ: Viện kiểm sát không đề cập.

Tuyên nghĩa vụ chịu án phí và quyền kháng cáo cho các đương sự theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm vấn công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Ng và anh Vũ Đình H về chung sống với nhau như vợ chồng trên cơ sở tự nguyện, có cưới hỏi theo phong tục tập quán địa phương từ năm 2010 nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đến ngày 24/7/2013 chị Trương Thị Ng và anh Vũ Đình H mới đến ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Đây là một hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau ngày cưới vợ chồng về chung sống hoà thuận hạnh phúc đã có 02 con chung, đến tháng 9/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân dẫn đến việc chị Trương Thị Ng làm đơn xin ly hôn Vũ Đình H là do quan điểm, cách sống của vợ chồng không thống nhất với nhau trong việc làm ăn phát triển kinh tế gia đình, nuôi dậy con, dẫn đến vợ chồng thường xuyên sảy ra cãi chửi lẫn nhau, thiếu sự tôn trọng đối với bản thân và đôi bên gia đình, cuộc sống chung không hạnh phúc. Mặt khác tại phiên tòa chị Trương Thị Ng còn cho rằng mâu thuẫn giữa vợ chồng còn do anh Vũ Đình H đánh đập đe dọa chị và cho rằng anh Vũ Đình H nghiện ma túy thường xuyên bỏ nhà đi lang thang nhưng bản thân chị không có căn cứ nào chứng minh những nội dung việc anh Vũ Đình H đánh đập đe dọa chị và anh Vũ Đình H nghiện ma túy là không có cơ sở. Thực tế mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng và vợ chồng đã tự sống ly thân từ tháng 9/2018 cho đến nay. Trong thời gian này vợ chồng không quan tâm thăm hỏi gì đến nhau và cũng không có trách nhiệm gì với nhau nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn ngày 14/10/2021 chị Trương Thị Ng làm đơn khởi kiện xin được ly hôn với anh Vũ Đình H.

Đối với anh Vũ Đình H trong quá trình giải quyết vụ án thường xuyên vắng mặt tại nơi cư trú do vậy việc tống đạt các văn bản tố tụng cho anh Vũ Đình H Tòa án không thể tiến hành được đã phải thực hiện việc niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật để anh Vũ Đình H thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên anh Vũ Đình H không những không trả lời Tòa án bằng văn bản về những yêu cầu và nguyện vọng của mình đối với yêu cầu xin ly hôn và nuôi dưỡng con chung của chị Trương Thị Ng mà thậm chí anh Vũ Đình H cố tình trốn tránh, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Do vậy vụ án này Tòa án không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa hôm nay chị Trương Thị Ng vẫn giữ nguyên quan điểm xin được ly hôn đối với anh Vũ Đình H với lý do tình cảm vợ chồng không còn mâu thuẫn đã trầm trọng không thể khắc phục được, cuộc sống chung không hạnh phúc.

Xét yêu cầu của chị Trương Thị Ng và đề nghị của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp với các qui định tại Khoản 1 Điều 56 luật hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Trương Thị Ng và ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ đúng pháp luật.

[2].Về con chung: Tại phiên tòa hôm nay và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chị Trương Thị Ng xác nhận: Chị và anh Vũ Đình H, chung sống với nhau đến nay đã có 02 con chung Cháu lớn: Vũ Hải A - Sinh ngày: 16/6/2011; Cháu thứ hai: Vũ Hải Y - Sinh ngày: 07/8/2013. Hiện nay các cháu đều khỏe mạnh phát triển bình thường không cháu nào ốm đau bệnh tật gì và hiện tại cả 02 cháu đang được chị chăm sóc và nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị Trương Thị Ng có yêu cầu và nguyện vọng xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cả 02 cháu cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Chị không yêu cầu anh Vũ Đình H phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.

Xét yêu cầu của chị Trương Thị Ng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa về việc nuôi dưỡng con chung là có căn cứ. Bởi lẽ kể từ khi anh chị xảy ra mâu thuẫn và sống ly thân thì anh Vũ Đình H thường xuyên bỏ nhà đi, không quan tâm gì đến chị và các cháu, để mặc các cháu nhỏ cho chị Trương Thị Ng chăm sóc, nuôi dưỡng. Mặt khác tại các biên bản ghi ý kiến của cháu Vũ Hải A và cháu Vũ Hải Y thì các cháu đều có yêu cầu và nguyện vọng xin được ở với chị Trương Thị Ng đồng thời bản thân chị Trương Thị Ng cũng xác định chị có thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi dưỡng hai cháu cho đến khi các cháu trưởng thành mà không cần sự chu cấp của anh Vũ Đình H. Do vậy để đảm bảo sự ổn định cho các cháu về tâm lý cũng như trong sinh hoạt và quyền lợi về mọi mặt của các cháu. Hội đồng xét xử cần chấp nhận yêu cầu của chị Trương Thị Ng về việc nuôi dưỡng con chung và giao cháu Vũ Hải A va cháu Vũ Hải Y cho chị Trương Thị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[3]Về tài sản chung: Chị Trương Thị Ng xác nhận trong thời gian chung sống chị và anh Vũ Đình H chưa tạo dựng được tài sản gì chung. Nên khi ly hôn chị Trương Thị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Viện kiểm sát không đề cập. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về công nợ chung: Chị Trương Thị Ng xác nhận trong thời gian chung sống chị và anh Vũ Đình H có vay của ngân hàng chính sách xã hội huyện B, tỉnh Lào Cai số tiền 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng), lãi xuất 3,3%/năm, thời hạn vay đến năm 2028. Hiện nay chưa đến kỳ hạn trả nợ. Số tiền này bản thân chị Trương Thị Ng cam kết có trách nhiệm thanh toán trả cho ngân hàng chính sách theo định kỳ khi đến hạn. Mặt khác ngân hàng chính sách huyện B không yêu cầu Tòa án giải quyết thu hồi nợ trong vụ án này. Nên chị Trương Thị Ng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Viện kiểm sát không đề cập. Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Về án phí: Đương sự phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147; Điểm b Khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trương Thị Ng ly hôn với anh Vũ Đình H.

2. Về con chung: Xử giao cháu Vũ Hải A; Sinh ngày: 16/5/2011; Cháu Vũ Hải Y; Sinh ngày: 07/8/2013 cho chị Trương Thị Ng trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Vũ Đình H không phải cấp dưỡng tiền nuôi dưỡng con chung.

Sau khi ly hôn, anh Vũ Đình H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3.Về án phí: Chị Trương Thị Ng phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0002715 ngày 19/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Lào Cai.

Xác nhận chị Trương Thị Ng đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, báo cho nguyên đơn biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Trường hợp bản án quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi dưỡng con chung khi ly hôn số 59/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:59/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Hà - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:22/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về