Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con và nợ chung số 74/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIỒNG TRÔM, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 74/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON VÀ NỢ CHUNG

Ngày 07 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 26/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 01 năm 2021 về ly hôn và tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 99/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số: 83/2021/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị D, sinh năm 1982 (Có mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã Châu B, huyện G, tỉnh Bến Tre.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1981 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.

3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Châu Thị C, sinh năm 1955 Địa chỉ: Ấp B, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre - Anh Đỗ Văn T, sinh năm 1980 Địa chỉ: Thôn M, xã M, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.

Người đại diện theo ủy quyền của anh T là bà Châu Thị C theo văn bản ủy quyền ngày 13/4/2021.

Bà C có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 16/4/2021 và ngày 31/5/2021.

- Ông Nguyễn Văn R, sinh năm 1957 Đại chỉ: Ấp B, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre.

Ông R có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Ngân hàng chính sách xã hội V Địa chỉ: Đường L, phường H, quận H, Thành phố Hà Nội.

Đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T – Chức vụ: Tổng giám đốc Đại diện theo ủy quyền khởi kiện: Bà Phạm Thị Ngọc T – Chức vụ: Giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện G.

Đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng ông Nguyễn Thanh P – Phó giám đốc Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện G.

Ông P có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 15/4/2021.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện, bản tự khai, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa nguyên đơn chị Đỗ Thị D trình bày: Chị và anh Nguyễn Hoàng K kết hôn vào năm 2000, do mai mối và tự nguyện tiến đến hôn nhân nhưng chưa đăng ký kết hôn. Đến năm 2004, chị và anh K đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre và đã được cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 22/4/2004. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu, đến tháng 4/2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường xuyên cãi nhau nên vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay. Do xác định tình cảm vợ chồng không còn hàn gắn được nữa nên chị yêu cầu được ly hôn với anh K.

Về con chung: Có 02 con chung tên là Nguyễn Thị Diễm T, sinh ngày 01/5/2001, đã thành niên có khả năng lao động nuôi sống bản thân và cháu Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 17/4/2004, hiện đang sống với anh K. Chị yêu cầu để anh K được tiếp tục nuôi dưỡng cháu L, chị không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không có tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Có nợ bà Châu Thị C số tiền 50.000.000 đồng và 04 chỉ vàng 24k. Nợ anh Đỗ Văn T số tiền 32.000.000 đồng. Nợ ông Nguyễn Văn R số tiền 23.000.000 đồng. Chị và anh K sẽ tự thỏa thuận giải quyết số tiền nợ nêu trên với bà C, anh T và ông R bên ngoài không có tranh chấp nên không yêu cầu tòa án giải quyết. Ngoài ra, còn nợ phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện G số tiền 20.000.000 đồng, ngày 17/4/2021 chị đã trả nợ cho Ngân hàng xong nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Hoàng K đã được tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời anh đến tòa tham dự các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và dự phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng anh vắng mặt không có lý do nên không có lời khai cũng như không có ý kiến phản đối đối với yêu cầu khởi kiện của chị D.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Bà Châu Thị C (đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của anh Đỗ Văn T) có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nhưng có lời khai: Bà là mẹ ruột của chị D. Vào năm 2018 bà có cho vợ chồng anh K, chị D mượn số tiền 75.000.000 đồng và 06 chỉ vàng 24k. Năm 2020, anh K và chị D có trả cho bà được số tiền 25.000.000 đồng và 02 chỉ vàng 24k nên hiện nay chỉ còn nợ lại 50.000.000 đồng và 04 chỉ vàng 24k. Ngoài ra, vào năm 2018 vợ chồng chị D, anh K có mượn của anh Đỗ Văn T số tiền 32.000.000 đồng đến nay chưa trả. Bà, anh T, anh K, chị D sẽ tự thỏa thuận giải quyết số tiền, vàng nợ nêu trên bên ngoài, không có tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

- Ông Nguyễn Văn R có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nhưng có lời khai: Vào khoảng năm 2012 – 2013 ông có cho vợ chồng anh Nguyễn Hoàng K và chị Đỗ Thị D mượn số tiền 25.000.000 đồng. Sau đó anh K, chị D đã trả cho ông được số tiền 2.000.000 đồng nên chỉ còn nợ lại 23.000.000 đồng. Ông không có tranh chấp, không có yêu cầu tòa án giải quyết gì đối với số tiền nêu trên trong vụ án xin ly hôn giữa chị D với anh K.

- Ông Nguyễn Thanh P là người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng của Ngân hàng chính sách xã hội V – Phòng giao dịch huyện G có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt nhưng có lời khai: Ngày 17/4/2020, hộ gia đình chị Đỗ Thị D, anh Nguyễn Hoàng K cùng địa chỉ ấp B, xã C, huyện G có vay của Ngân hàng chính sách xã hội V – Phòng giao dịch huyện G số tiền 20.000.000 đồng, theo chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường, lãi suất là 9%/năm, hạn trả là 17/4/2025. Ngày 17/4/2021, chị D và anh K đã trả hết số tiền nợ gốc và lãi cho Ngân hàng nên Ngân hàng không có tranh chấp, không yêu cầu tòa án giải quyết gì trong vụ kiện nêu trên.

Kiểm sát viên Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:

- Về việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử, Thẩm phán, Thư ký: Thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 71, 73 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh K không thực hiện đúng quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

- Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Đỗ Thị D về việc xin ly hôn với anh Nguyễn Hoàng K. Về con chung: Có 02 con chung là chị Nguyễn Thị Diễm T, sinh ngày 01/5/2001, đã thành niên và cháu Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 17/4/2004. Giao cháu L cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng, chị D không cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của đương sự và đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Chị Đỗ Thị D có yêu cầu ly hôn và tranh chấp nuôi con với anh Nguyễn Hoàng K, cư trú tại ấp B, xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre là vụ án hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn anh Nguyễn Hoàng K đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt tại tòa không có lý do. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh K là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung: Anh K vắng mặt tại tòa không có lý do thì xem như đã tự tước bỏ quyền được chứng minh, trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của chị D và phải chịu hậu quả pháp lý của việc vắng mặt đó. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận lời khai và tài liệu chứng cứ do chị D cung cấp cũng như các chứng cứ Tòa án đã thu thập được để làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án là phù hợp.

[2.1] Về hôn nhân: Theo chị D trình bày thì chị và anh K kết hôn vào năm 2000, do mai mối và tự nguyện tiến đến hôn nhưng chưa đăng ký kết hôn. Đến năm 2004, anh chị đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, huyện G, tỉnh Bến Tre và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 22/4/2004 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật bảo vệ. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống có hạnh phúc được thời gian đầu. Đến tháng 4/2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên chị và anh K đã sống ly thân từ đó đến nay. Xét thấy, Tòa án đã tiến hành hòa giải để chị D và anh K đoàn tụ nhưng anh K không đến đã chứng tỏ anh không muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng với chị D. Hơn nữa, theo xác minh tại địa phương thì cuộc sống vợ chồng của chị D, anh K có phát sinh mâu thuẫn, anh K thường xuyên ăn nhậu, cờ bạc, đôi khi xảy ra đánh nhau. Mặc khác, chị D và anh K không còn chung sống với nhau, mỗi người có một cuộc sống riêng và tại tòa chị D vẫn kiên quyết xin ly hôn. Như vậy, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa chị D và anh K đã mâu thuẫn trầm trọng, vợ chồng không còn tình cảm, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D đối với anh K là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Chị D và anh K có 02 con chung là chị Nguyễn Thị Diễm T, sinh ngày 01/5/2001, đã thành niên có khả năng lao động nuôi sống bản thân nên Tòa án không xem xét giải quyết và cháu Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 17/4/2004, hiện đang sống với anh K. Chị D yêu cầu để cháu L cho anh K được tiếp tục nuôi dưỡng. Xét thấy, cháu L hiện đang sinh sống ổn định với anh K và cháu có nguyện vọng muốn được chung sống với anh K. Hơn nữa, trong quá trình giải quyết vụ án anh K không tham gia tố tụng nên không có ý kiến về việc nuôi dưỡng con chung. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích về mọi mặt của cháu L, tránh làm xáo trộn cuộc sống hiện nay của cháu, cần giao cháu L cho anh K tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: Theo quy định tại Điều 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình thì anh K có quyền yêu cầu chị D có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nhưng anh K không tham gia tố tụng nên không có ý kiến, chị D không đồng ý cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[2.4] Về nợ chung: Chị D khai có nợ bà Châu Thị C số tiền 50.000.000 đồng và 04 chỉ vàng 24k. Nợ anh Đỗ Văn T số tiền 32.000.000 đồng. Nợ ông Nguyễn Văn R số tiền 23.000.000 đồng. Chị D và anh K sẽ tự thỏa thuận giải quyết số tiền nợ nêu trên với bà C, anh T và ông R bên ngoài không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Đối với số tiền nợ Phòng giao dịch Ngân hàng chính sách xã hội huyện G 20.000.000 đồng, chị đã trả nợ cho Ngân hàng xong không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Chị D phải chịu 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp.

[4] Ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Giồng Trôm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83, 84 của Luật hôn nhân và gia đình; Các Điều 147, Điều 227, khoản 3 Điều 228, 273, 278 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị D đối với anh Nguyễn Hoàng K.

Chị Đỗ Thị D được ly hôn với anh Nguyễn Hoàng K.

2. Về con chung: Chị Đỗ Thị D và anh Nguyễn Hoàng K có 02 con chung là chị Nguyễn Thị Diễm T, sinh ngày 01/5/2001, đã thành niên có khả năng lao động nuôi sống bản thân nên Tòa án không xem xét giải quyết và cháu Nguyễn Hoàng L, sinh ngày 17/4/2004. Giao cháu Nguyễn Hoàng L cho anh Nguyễn Hoàng K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu L đủ 18 tuổi.

Chị Đỗ Thị D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Chị D được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung, không ai được cản trở chị thực hiện quyền này. Vì lợi ích của con một hoặc cả hai bên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

4. Về nợ chung: Chị D, anh K, bà C, anh T và ông R tự thỏa thuận giải quyết số tiền nợ bên ngoài không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí Tòa án số 0006805 ngày 20/01/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G.

Quyền kháng cáo, kháng nghị: Các đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp có quyền kháng nghị bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được thông báo, niêm yết.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

156
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con và nợ chung số 74/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:74/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Trôm - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về