Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng số 10/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẮK, TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 10/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON VÀ CẤP DƯỠNG

Ngày 23 tháng 9 năm 2022 tại hội trường Tòa án nhân dân huyện Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 42/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 09/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thu Th, sinh năm 2000.

Địa chỉ: Thôn H3, xã Đ, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Bỉnh M, sinh năm 1998.

Địa chỉ: Thôn Đ, xã B, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 20/6/2022 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Phạm Thị Thu Th trình bày:

Chị Phạm Thị Thu Th chung sống với anh Nguyễn Bỉnh M từ cuối năm 2016, nhưng đến ngày 25/3/2019 chị và anh M mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện L, tỉnh Đắk Lắk, việc chị chung sống và kết hôn với anh M là hoàn toàn tự nguyện. Chị và anh M chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh M không chăm lo cuộc sống gia đình, thường xuyên chửi bới, đánh đập chị, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, chị đã đưa con về nhà mẹ ruột ở từ tháng 5/2022 đến nay.

Nay chị thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, vì vậy chị yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Lắk giải quyết cho chị ly hôn với anh M.

Về con chung: Chị Th và anh M có 02 con chung là Nguyễn Phạm Ngọc H, sinh ngày 10/4/2017 và Nguyễn Bỉnh Bảo G, sinh ngày 14/5/2020. Khi ly hôn chị Th yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con và yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con với mức cấp dưỡng cho mỗi con là 2.000.000 đồng/tháng.

Về tài sản và nợ chung: Chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Bỉnh M: Tòa án đã tống đạt thông báo về việc thụ lý vụ án và giấy triệu hợp lệ nhiều lần nhưng anh M không đến Tòa án làm việc. Qua xác M tại địa phương được biết anh M hiện đang cư trú tại thôn Đoàn Kết 1, xã Buôn Triết, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk. Tuy nhiên, anh M không đến Tòa án để tham gia tố tụng nên Tòa án không lấy lời khai của anh M được.

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và về việc giải quyết vụ án:

-Về thẩm quyền giải quyết vụ án, quan hệ pháp luật tranh chấp, xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự, thông báo về việc thụ lý vụ án, thu thập chứng cứ, thời hạn chuẩn bị xét xử, quyết định đưa vụ án ra xét xử và tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án cho đương sự đúng quy định của pháp luật.

-Về chấp hành pháp luật của đương sự: Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của đương sự. Bị đơn không thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự.

-Về giải quyết vụ án: Căn cứ các điều 56, 81 của Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Phạm Thị Thu Th, cho chị Th được ly hôn với anh Nguyễn Bỉnh M.

Về con chung: Giao các con Nguyễn Phạm Ngọc H và Nguyễn Bỉnh Bảo G cho chị Th trực tiếp nuôi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng cho các con, với mức cấp dưỡng đối với mỗi con là 700.000 đồng/tháng.

Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp hôn nhân và gia đình, bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Chị Phạm Thị Thu Th khởi kiện xin ly hôn với anh Nguyễn Bỉnh M, yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung và cấp dưỡng. Đây là quan hệ tranh chấp “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng”. Bị đơn anh Nguyễn Bỉnh M cư trú tại: Xã B, huyện L, tỉnh Đắk Lắk. Căn cứ vào khoản 1, khoản 5 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk.

[2] Về yêu cầu của đương sự:

Đối với yêu cầu ly hôn của chị Phạm Thị Thu Th: Chị Phạm Thị Thu Th và anh Nguyễn Bỉnh M kết hôn với nhau ngày 25/3/2019, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Buôn Triết, huyện Lắk, tỉnh Đắk Lắk, là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị Th và anh M chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh M không chăm lo cuộc sống gia đình, thường xuyên chửi bới, đánh đập chị Th. Qua xác M tại thôn Đoàn Kết 1, xã Buôn Triết, huyện Lắk, nơi chị Th, anh M cư trú, thể hiện vợ chồng chị Th, anh M xảy ra mâu thuẫn từ năm 2021 cho đến nay, mâu thuẫn giữa vợ chồng anh M, chi Th kéo dài, trầm trọng và không thể khắc phục được, hiện nay chị Th đã đem con về nhà mẹ ruột ở.

Hội đồng xét xử xét thấy giữa chị Th và anh M không còn tình cảm, thương yêu, tôn trọng nhau, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Th, cho chị Th được ly hôn anh M là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

Đối với yêu cầu về nuôi con chung và cấp dưỡng: Chị Th và anh M có 02 con chung là Nguyễn Phạm Ngọc H, sinh ngày 10/4/2017 và Nguyễn Bỉnh Bảo G, sinh ngày 14/5/2020. Khi ly hôn chị Th yêu cầu được trực tiếp nuôi 02 con và yêu cầu anh M cấp dưỡng nuôi con với mức cấp dưỡng cho mỗi con là 2.000.000 đồng/tháng.

Xét điều kiện, hoàn cảnh của anh M và chị Th, từ trước đến nay chị Th là người trực tiếp chăm lo cho các con, các con của chị Th và anh M đang còn nhỏ, cần sự chăm sóc của mẹ, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên, đảm bảo cho các con của chị Th và anh M có nơi ở, sinh hoạt, học tập ổn định, cũng như nghĩa vụ của cha mẹ đối với con chưa thành niên. Căn cứ vào Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử giao các con Nguyễn Phạm Ngọc H và Nguyễn Bỉnh Bảo G cho chị Th trực tiếp nuôi là phù hợp.

Về cấp dưỡng nuôi con: Hội đồng xét xử xét thấy chị Th là lao động tự do, không có công việc ổn định, thu nhập không cao, xuất phát từ lợi ích mọi mặt của con, cũng như nghĩa vụ của cha mẹ không trực tiếp nuôi con. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng và mức cấp dưỡng cho con của chị Th, buộc anh M có nghĩa vụ cấp dưỡng cho các con với mức cấp dưỡng đối với mỗi con là 2.000.000 đồng/tháng.

Anh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về tài sản và nợ chung: Chị Th và anh M không yêu cầu Tòa án giải quyết. Nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về án phí: Chị Phạm Thị Thu Th phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp hôn nhân và gia đình, anh Nguyễn Bỉnh M phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1, khoản 5 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 235, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 56, 81, 82, 83, 107 và Điều 110 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điểm a khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Phạm Thị Thu Th.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Thu Th và anh Nguyễn Bỉnh M.

2. Về nuôi con chung: Giao các con chung Nguyễn Phạm Ngọc H, sinh ngày 10/4/2017 và Nguyễn Bỉnh Bảo Giáp, sinh ngày 14/5/2020 cho chị Phạm Thị Thu Th trực tiếp nuôi.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Bỉnh M có nghĩa vụ cấp dưỡng cho các con Nguyễn Phạm Ngọc H và Nguyễn Bỉnh Bảo G, với mức cấp dưỡng cho mỗi con là 2.000.000 đồng/tháng (Hai triệu đồng một tháng), thời gian cấp dưỡng: Từ ngày 23/9/2022 (Ngày hai mươi ba tháng chín năm hai nghìn không trăm hai mươi hai) đến khi con đủ 18 (mười tám) tuổi.

Sau khi ly hôn anh Phạm Bỉnh M có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

4. Về án phí: Chị Phạm Thị Thu Th phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về tranh chấp hôn nhân và gia đình, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị Th đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lắk theo biên lai thu tạm ứng án phí số 60/AA/2021/0001689 ngày 08/7/2022.

Anh Nguyễn Bỉnh M phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

97
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con và cấp dưỡng số 10/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:10/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lắk - Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về