Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 97/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 97/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 64/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87A/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2022; giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Võ Thị Kiều N, sinh năm 1996 – Xin vắng mặt;

Địa chỉ: Ấp A T, xã A N T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

- Bị đơn: Anh Võ Văn S, sinh năm 1987- Vắng mặt.

Địa chỉ: Ấp L T, xã H T, thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Võ Thị Kiều N trình bày:

Chị và anh S chung sống với nhau từ năm 2017, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn năm 2018 tại Ủy ban nhân dân xã A N T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Sau khi cưới vợ chồng sống chung với cha mẹ chị tại ấp A T, xã A N T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khi chị N sinh con thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh S thường uống rượu về mắng chửi và đánh chị, sau đó anh S thường bỏ về nhà cha mẹ ruột anh S ở. Khi con được 01 tuổi thì anh S quay về nói với chị là đang thiếu nợ, chị không biết tại sao anh S thiếu nợ nhưng chị vẫn đồng ý cùng anh S trả nợ. Tuy nhiên, vợ chồng vẫn không chung sống hạnh phúc được, từ đầu năm 2022 anh S bỏ về nhà cha mẹ ruột dựng nhà ở riêng và vợ chồng ly thân đến nay. Từ khi ly thân, chị và anh S không ai đặt vấn đề đoàn tụ.

Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh S.

Về con chung: Vợ chồng có 01 một con chung tên Võ Đăng K, sinh ngày 30-4-2018, hiện đang theo sống với chị. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu K, không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, triệu tập anh S đến Toà lấy lời khai, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, tham gia phiên toà nhưng anh S không đến nên không thể hiện được lời trình bày và yêu cầu của anh S.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:

- Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Riêng bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về quyền và nghĩa vụ của bị đơn.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét quyết định:

Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Võ Thị Kiều N yêu cầu được ly hôn anh Võ Văn S.

Về con chung: Giao cháu Võ Đăng K, sinh ngày 30-4-2018 cho chị Võ Thị Kiều N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Ghi nhận chị N không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn chị Võ Thị Kiều N vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn anh Võ Văn S vắng mặt tại phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh S tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã A N T, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An nên được thừa nhận là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, anh S bỏ về nhà cha mẹ ruột sống và vợ chồng ly thân từ năm 2018. Sau khi ly thân được 01 năm thì anh S quay về và vợ chồng chung sống lại nhưng vẫn không hạnh phúc, anh S tiếp tục bỏ về nhà cha mẹ ruột sống nên vợ chồng ly thân từ đầu năm 2022 đến nay mà không ai đặt vấn đề đoàn tụ. Nay chị N yêu cầu ly hôn, Tòa án đã nhiều lần mời anh S đến Tòa trình bày ý kiến, tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng anh S đều không đến, chứng tỏ anh S không có thiện chí hàn gắn với chị N. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn giữa chị N và anh S trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, có cơ sở chấp nhận yêu cầu của chị N được ly hôn anh S theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị N trình bày vợ chồng có 01 con chung là cháu Võ Đăng K, sinh ngày 30-4-2018, hiện đang theo sống với chị N. Nay chị N yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu K. Hội đồng xét xử xét thấy, từ khi chị N và anh S ly thân, chị N là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu K, hiện cháu phát triển tốt về thể chất lẫn tinh thần, cháu còn nhỏ cần có sự chăm sóc của mẹ nên có căn cứ giao cháu K cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình.

Ghi nhận chị N không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Như phân tích trên thì đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án là có cơ sở chấp nhận.

[6] Án phí: Chị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82 của Luật Hôn nhân và gia đình;

điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Võ Thị Kiều N về việc yêu cầu ly hôn anh Võ Văn S.

Chị Võ Thị Kiều N được ly hôn anh Võ Văn S.

2. Về con chung: Giao cháu Võ Đăng K, sinh ngày 30-4-2018 cho chị Võ Thị Kiều N tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Ghi nhận chị N không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con.

Anh S có quyền và nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra giải quyết.

4. Án phí: Chị Võ Thị Kiều N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về việc ly hôn là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0026569 ngày 04 tháng 5 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh; chị N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Báo cho chị N, anh S biết có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 97/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:97/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về