TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH B
BẢN ÁN 95/2022/HNGĐ-ST NGÀY 27/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 27 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố V, tỉnh B tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 470/2022/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 05 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số 51/2022/QĐST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị S, sinh năm 1990;
Địa chỉ: Số 1515/1/5 đường 30/4 phường 12, thành phố V, tỉnh B, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tuấn P, sinh năm 1987;
Địa chỉ: Số 1216/15/4 đường 30/4 phường 12, thành phố V, tỉnh B, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khơi kiên, bản tự khai nguyên đơn bà Trần Thị S trình bày:
Bà Trần Thị S và ông Nguyễn Tuấn P chung sống vào năm 2008, có tổ chức lễ cưới, đăng ký kết hôn tại UBND phường 12, thành phố V, tỉnh B theo giấy chứng nhận kết hôn số 148, quyển số 01/2008 ngày 15-10-2008.
Quá trình vợ chồng chung sống hạnh phúc thời gian đầu và sinh được hai con, đến tháng 11/2021 phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung dẫn đến hai bên tự sống ly thân từ tháng 3/2022, bà S đã về sống với gia đình, còn ông P sống chung với cha mẹ. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt, không thể duy trì cuộc sống chung nên bà S được ly hôn với ông Nguyễn Tuấn P.
Về con chung: Có 2 con chung là Nguyễn Thị Phương U, sinh ngày 19- 12-2008 và Nguyễn Thị Phương V, sinh ngày 11-8-2015. Bà S yêu cầu trực tiếp nuôi hai con đến tuổi trưởng thành và tự nguyện không yêu cầu ông P phải cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà S không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn ông Nguyễn Tuấn P: Tòa án tống đạt hợp lệ đầy đủ các văn bản tố tụng nhưng ông P vẫn vắng mặt nên Tòa án không thu thập được ý kiến trình bày của ông P.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V phát biểu quan điểm:
Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ nhưng nguyên đơn có đơn đề nghị vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt các đương sự là đúng theo quy định. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về án phí nguyên đơn phải nộp toàn bộ theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được kiểm tra, xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của Kiểm sát viên, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục, thẩm quyền giải quyết vụ án:
Theo nội dung đơn khởi kiện có cơ sở xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đang cư trú tại thành phố V nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
Tòa án triệu tập hợp lệ các đương sự tham gia tố tụng tại phiên tòa nhưng nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa xét xử lần hai nhưng vắng mặt không có lý do. Do vậy, Tòa án vẫn tiến hành xét xử trong trường hợp vắng mặt các đương sự theo điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét về quan hệ hôn nhân: Bà S và ông P tự nguyện chung sống từ năm 2008, có đăng ký kết hôn theo quy định được UBND phường 12, thành phố V, tỉnh B cấp giấy chứng nhận kết hôn số 148, quyển số 01/2008 ngày 15-10- 2008. Qua thời gian chung sống giữa hai ông bà phát sinh nhiều mâu thuẫn do không hợp tính tình, bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung dẫn đến hai bên tự sống ly thân từ tháng 3/2022. Điều này cho thấy mâu thuẫn giữa vợ chồng bà S, ông P đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt, đời sống chung không thể kéo dài, không có sự thương yêu, quý trọng, chăm sóc lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc. Vì vậy bà S yêu cầu ly hôn là có cơ sở phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[2.2] Về con chung: Có 2 con chung là cháu Nguyễn Thị Phương U, sinh ngày 19-12-2008 và Nguyễn Thị Phương V, sinh ngày 11-8-2015. Theo nguyện vọng của con yêu cầu sống với mẹ nên bà S yêu cầu được trực tiếp nuôi hai con và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện và phù hợp pháp luật nên công nhận.
[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Về án phí: Do bà S là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự. ông P không phải chịu án phí.
[4] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh B là phù hợp với quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; Khoản 1 Điều 227; Khoản 1 Điều 228; Điều 271; Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luât Hôn nhân và gia đinh.
- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị S đối với ông Nguyễn Tấn Phương về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”.
1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị S được ly hôn với ông Nguyễn Tuấn P.
2. Về con chung: Có 2 con chung là cháu Nguyễn Thị Phương U, sinh ngày 19-12-2008 và Nguyễn Thị Phương V, sinh ngày 11-8-2015. Bà Trần Thị S được quyền trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung đến tuổi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Công nhận sự tự nguyện của bà Trần Thị S về việc không yêu cầu ông Nguyễn Tuấn P cấp dưỡng nuôi con.
Sau khi ly hôn, ông Nguyễn Tuấn P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung không ai được quyền cản trở. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc thăm con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Trần Thị S không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Bà Trần Thị S phải nộp 300.000đ (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002407 ngày 11 tháng 5 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh B. Như vậy, bà Trần Thị S đã nộp xong án phí. Ông Nguyễn Tuấn P không phải chịu án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
6. Về quyền yêu cầu thi hành: Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 95/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 95/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/07/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về