Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 90/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 90/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 162/2022/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 93/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 60/2022/QĐST-DS ngày 25 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trương Thị Thùy T, sinh năm: 1986 (vắng mặt, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ 21, ấp M, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn N, sinh năm: 1983 (vắng mặt).

Địa chỉ: Tổ 6, khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – VũngTàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Trương Thị Thùy T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Thùy T và anh Nguyễn Văn N tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân nhân xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Sau khi, kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến tháng 9-2021 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên anh N bỏ đi một thời gian sáu mới quay về. Sau khi anh N quay trở về vợ chồng tiếp tục chung sống với nhau, nhưng thường xuyên xảy mâu thuẫn có khi anh N còn gây thương tích cho chị T. Từ đầu năm 2022, chị T đưa con về nhà cha mẹ ruột ở huyện Đ sinh sống và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh N.

- Về con chung và cấp dưỡng: Có 01 con chung, sau khi ly hôn chị T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 08-11-2019 đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh N cấp dưỡng.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Văn N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Theo kết quả xác minh thì hiện nay anh N đang cư trú tại tổ 6, khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Tại phiên tòa: Chị T vắng mặt, nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt không có lý do. Các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án và không cung cấp tài liệu, chứng cứ mới.

Kiểm sát viên tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa:

Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T về việc xin ly hôn và tranh chấp về nuôi con đối với anh N.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng chị T yêu cầu Tòa án giải quyết về việc ly hôn và tranh chấp về nuôi con đối với anh N được xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Tại phiên tòa chị T vắng mặt, nhưng có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; anh N đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt tất cả các đương sự theo quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn thì thấy:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh N tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Theo chị T, sau khi kết hôn thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến tháng 9-2021 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong cuộc sống. Xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị T yêu cầu được ly hôn với anh N. Trong qúa trình tố tụng, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và triệu tập nhiều lần để làm rõ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng anh N vắng mặt không có lý do và không có ý kiến gì. Theo kết quả xác minh thì trong quá trình chung sống vợ chồng có mâu thuẫn gì hay không, địa phương không nắm rõ. Chị T cho rằng mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng và đã ly thân một thời gian dài, nhưng không giải quyết được nên yêu cầu được ly hôn, trong khi đó anh N cố tình vắng mặt cho thấy không có thiện chí hòa giải. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng trầm trọng, không có thiện chí hòa giải đoàn tụ nên chị T yêu cầu được ly hôn là có cơ sở chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình.

[3.2] Về con chung và cấp dưỡng: Vợ chồng có 01 con chung, chị T yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Minh T đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu anh N cấp dưỡng. Xét thấy, cháu Thư đang còn nhỏ cần có sự quan tâm chăm sóc của người mẹ hơn nên giao cho chị T được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp. Việc chị T không yêu cầu anh N cấp dưỡng là hoàn toàn tự nguyện nên ghi nhận.

[3.3] Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu nên không giải quyết.

[4] Về án phí sơ thẩm: Chị T là nguyên đơn phải nộp 300.000đ án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 228, 238, 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 19, 51, 56, 57, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trương Thị Thùy T về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” đối với anh Nguyễn Văn N.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị Thùy T được ly hôn với anh Nguyễn Văn N.

- Về con chung và cấp dưỡng: Giao cháu Nguyễn Minh T, sinh ngày 08-11- 2019 cho chị Trương Thị Thùy T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và anh Nguyễn Văn N không phải cấp dưỡng.

Người không trực tiếp nuôi con được quyền thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung không ai được quyền ngăn cản. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con, nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục con chung.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét, giải quyết.

2. Về án phí sơ thẩm: Chị Trương Thị Thùy T phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí Hôn nhân và Gia đình sơ thẩm không có giá ngạch, được trừ vào 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008918 ngày 23 tháng 6 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với đương sự vắng mặt, thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

67
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 90/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:90/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về