TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 89/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 9 năm 2022 tại Tòa án nhân dân huyện Châu Thành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 306/2022/TLST - HNGĐ ngày 17/6/2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2022/QĐXXST-HN ngày 22/8/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2022/QĐST–HN ngày 12/9/2022, giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Thị D, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp GĐ, xã BT, huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. (Có mặt)
* Bị đơn: Anh Danh Quốc H, sinh năm 1988. Địa chỉ: Ấp TH, xã GT, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. (Vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Theo nội dung đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Thị D trình bày và yêu cầu như sau:
- Về hôn nhân: Chị và anh Danh Quốc H chung sống với nhau từ khoảng năm 2010. Trước khi chung sống, vợ chồng có tìm hiểu nhau trước một khoảng thời gian thì cả hai tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đi thực hiện việc đăng ký kết hôn, đã được Uỷ ban nhân dân xã BTĐ, huyện GR, tỉnh Kiên Giang cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 18/01/2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chị sinh sống tại huyện GR cho đến năm 2020 thì vợ chồng ly thân.
Trong quá trình vợ chồng chung sống đến khoảng năm 2011 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do thường xuyên cự cãi về kinh tế gia đình, luôn bất đồng quan điểm trong mọi vấn đề. Ngoài ra, anh H còn ham mê cờ bạc, thường xuyên ăn nhậu, không lo làm ăn, bỏ mặc vợ con. Mâu thuẫn kéo dài đến đầu năm 2020 thì anh H bỏ đi về cha mẹ ruột anh ở tại ấp TH, xã GT, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang cho đến nay và từ khi ly thân giữa chị và an H không có liên lạc, anh H cũng không đến thăm con.
Chị xác định, nay chị không còn tình cảm với anh H và nguyên nhân mâu thuẫn của cả hai cũng không thể hàn gắn được nữa nên chị Thị D yêu cầu được ly hôn với anh Danh Quốc H.
- Về con chung: Chị D xác định, chị và anh H có 02 con chung là cháu Thị Ngọc H1 (sinh ngày 04/4/2011) và cháu Danh Quốc H2 (sinh ngày 21/6/2012). 02 cháu sống cùng chị D từ khi chị và anh H ly thân đến nay. Nay ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Chị D xác định, trong quá trình chung sống, giữa chị và anh H không có tài sản và cũng không có nợ chung nên chị không yêu cầu giải quyết.
* Trong quá trình giải quyết bị đơn anh Danh Quốc H luôn vắng mặt nên không ó lời trình bày.
* Tại phiên tòa:
- Chị D: Yêu cầu được ly hôn với anh Danh Quốc H, yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung không có nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Anh H: Vắng mặt - Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến:
Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án và người tham gia tố tụng: Đã thực hiện đúng quy định của pháp luật.
Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX áp dụng khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và buộc nguyên đơn chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (gọi tắt là HĐXX) nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn chị Thị D khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Danh Quốc H là tranh chấp dân sự về hôn nhân và gia đình. Qua yêu cầu của đương sự trong vụ án được xác định mối quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.
Khi nguyên đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý vụ án giải quyết thì bị đơn có hộ khẩu thường trú tại ấp TH, xã GT, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
Xét thấy, anh H được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa sơ thẩm nhưng anh H vắng mặt lần 2 không có lý do nên HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tiến hành xét xử vắng mặt anh H.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Thị D và anh Danh Quốc H chung sống với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại UBND xã BTĐ và được cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 18/01/2012 theo đúng quy định của pháp luật nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.
Xét yêu cầu của chị D về việc ly hôn với anh H. HĐXX xét thấy, theo lời trình bày của D thì sau khi kết hôn và qua thời gian chung sống vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm với nhau, mâu thuẫn không thể hàn gắn được nên anh chị đã ly thân và không liên lạc với nhau từ năm 2020 cho đến nay. Do đó, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhiều lần nhằm động viên anh chị trở về chung sống, tiếp tục xây dựng hạnh phúc gia đình nhưng anh H luôn vắng mặt và không có ý kiến bằng văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến của anh đối với yêu cầu của chị Thiết. Đồng thời, việc anh chị ly thân từ năm 2020 đến nay là khoảng thời gian dài nhưng anh chị không tới lui để quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau là đã vi phạm quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được và tại phiên tòa chị D cương quyết ly hôn với anh H.
Do đó, HĐXX căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của chị D và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cho chị D được ly hôn với anh H.
[3] Về quan hệ con chung: Xét yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con chung là cháu Thị Ngọc H1 (sinh ngày 04/4/2011) và cháu Danh Quốc H2 (sinh ngày 21/6/2012) của chị D, HĐXX xét thấy, yêu cầu này của chị D là có cơ sở và phù hợp với nguyện vọng của 02 cháu (thể hiện tại 02 biên bản lấy ý kiến của con chưa thành niên ngày 20/7/2022) theo quy định tại khoản 2 Điều 81 luật HNGĐ 2014 nên HĐXX chấp nhận yêu cầu này của chị D.
Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, do chị D không yêu cầu nên HĐXX không xem xét. Nhưng khi cần thiết, chị D có quyền yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị D xác định, chị và anh H không có tranh chấp nên HĐXX không xem xét.
[5] Về án phí dân sự sơ thẩm (Hôn nhân và gia đình): Buộc chị D phải chịu án phí với số tiền là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng).
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Thị D được ly hôn với anh Danh Quốc H.
2. Về con chung: Giao cháu Thị Ngọc H1 (sinh ngày 04/4/2011) và cháu Danh Quốc H2 (sinh ngày 21/6/2012) cho chị D trực tiếp, trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở.
3. Về án phí dân sự sơ thẩm (Hôn nhân và gia đình): Buộc chị Thị D chịu án phí là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo lai thu số 0009410 ngày 03/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang nên chị D không phải nộp thêm.
4. Quyền kháng cáo: Chị D có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 30/9/2022) Riêng anh H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 89/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 89/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về