TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 84/2024/HNGĐ-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Trong ngày 29/01/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 206/2023/TLST-HNGĐ ngày 31/10/2023 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 304/2023/QĐXXST-HNGĐ ngày 04/01/2024 giữa các đương sự:
– Nguyên đơn: Bà Lý Thị Đa N, sinh năm 1991 (có mặt).
Địa chỉ: Số A đường H, Phường G, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
– Bị đơn: Ông Lý Hoài H, sinh năm 1994 (vắng mặt).
Địa chỉ: Nhà trọ B, Quốc lộ A, Khóm B, Phường G, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng.
NỘI DUNG VỤ ÁN
– Theo đơn khởi kiện cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Lý Thị Đa N trình bày: Vào năm 2016 bà N và ông H tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Uỷ ban nhân dân xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 04, ngày 04/3/2016. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, thường hay cãi vã. Bà N và ông H đã không còn chung sống gần hai năm nay. Nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng với ông H, không thể chung sống với nhau được nữa nên bà N yêu cầu được ly hôn. Thời gian chung sống vợ chồng có 01 con chung là Lý Hoàng H, sinh ngày 05/11/2016, hiện đang chung sống với bà N. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.
Nay bà Ni yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng giải quyết: Về quan hệ hôn nhân: Bà N yêu cầu được ly hôn với ông H. Về con chung: Bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Lý Hoàng H, sinh ngày 05/11/2016, không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu tòa án giải quyết.
– Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Lý Hoài H, nhưng ông H không có văn bản gửi cho Tòa án để trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của bà N và ông H cũng không đến tham gia phiên hòa giải cũng như không tham phiên tòa.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố S xác định: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng dân sự. Từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật, tuy nhiên sự chấp hành pháp luật của bị đơn chưa đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự và đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tòa án đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập xét xử đến lần thứ hai cho ông Lý Hoài H, nhưng ông Hvẫn vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt ông H.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện của bà Lý Thị Đa N, nhận thấy bà N và ông H tự nguyện chung sống với nhau, có tổ chức lễ cưới, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã A, huyện K, tỉnh Sóc Trăng cấp giấy chứng nhận kết hôn số 04, ngày 04/3/2016. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi vã, nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm sống, tình tình không hoà hợp, bà N và ông H đã không còn chung sống từ năm 2022 đến nay. Hiện bà N nhận thấy không còn tình cảm vợ chồng với ông H nên có nguyện vọng ly hôn. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án đã động viên bà N suy nghĩ lại, hàn gắn tình cảm vợ chồng với ông H, nhưng bà N vẫn cương quyết xin được ly hôn, từ đó cho thấy tình trạng hôn nhân giữa các bên trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà N được ly hôn với ông H.
[3] Về con chung: Trong thời gian chung sống, bà N và ông H có một con chung là Lý Hoàng H, sinh ngày 05/11/2016 hiện đang chung sống với bà N. Bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến trưởng thành, không yêu cầu ông Hận cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, con chung là Lý Hoàng H hiện đang chung sống với bà N, để đảm bảo cho môi trường sống của cháu H không bị xáo trộn, để cháu phát triển bình thường về tâm, sinh lý, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu H là muốn được chung sống với mẹ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà Ni giao con chung là Lý Hoàng H, sinh ngày 05/11/2016 cho bà N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ cháu H đủ 18 tuổi. Bà N hiện có việc làm, thu nhập ổn định, đảm bảo đủ điều kiện nuôi con, nên việc bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về tài sản chung: Bà N trình bày không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5] Về nợ chung: Bà N trình bày không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[6] Từ những phân tích nêu trên, xét yêu cầu của nguyên đơn, đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng là có căn cứ, Hội đồng xét xử chấp nhận.
[7] Án phí sơ thẩm: Bà N phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTV Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Khoản 3 Điều 36, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 273, khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ vào điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Tu yên xử :
1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lý Thị Đa N.
- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lý Thị Đa N được ly hôn với ông Lý Hoài H.
- Về con chung: Giao con chung là Lý Hoàng H, sinh ngày 05/11/2016 cho bà Lý Thị Đa N trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi. Ông Lý Hoài H không phải cấp dưỡng nuôi con chung là Lý Hoàng H.
Ông Lý Hoài H được quyền thăm nom con chung là Lý Hoàng H theo quy định của pháp luật.
- Về tài sản chung: Bà Lý Thị Đa N trình bày không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
- Về nợ chung: Bà Lý Thị Đa N trình bày không có, không yêu cầu giải quyết, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
2/ Về án phí sơ thẩm: Bà Lý Thị Đa N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền ứng án phí bà N đã nộp 300.000 đồng, theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0011558, ngày 20/10/2023 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng.
Như vậy, bà Lý Thị Đa N đã thực hiện xong nghĩa vụ nộp án phí.
Ông Lý Hoài H không phải chịu án phí sơ thẩm.
3/ Về quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ, để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải Thi hành án có quyền thỏa thuận Thi hành án, quyền yêu cầu Thi hành án, tự nguyện Thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 84/2024/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 84/2024/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 29/01/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về