Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 83/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 83/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 105/2022/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 58/2022/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Chị Phạm Thị H; Sinh năm: 1997 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.

2.Bị đơn: Anh Hà Văn V; Sinh năm: 1993 Địa chỉ: Thôn T, xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa. Vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 20/6/2022 cũng như trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Phạm Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Hà Văn V kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa ngày 23/3/2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hòa thuận đến đầu năm 2018 thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ, cuộc sống không hạnh phúc. Hiên tại, chị và anh V đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay, không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, hạnh phúc hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh V.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Hà Nam A (Sau đổi họ, tên thành Phạm Quốc T), sinh ngày 14/7/2017. Từ khi vợ chồng sống ly thân thì cháu luôn ở với chị. Ly hôn, chị đề nghị được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 10/8/2022, bị đơn anh Hà Văn V trình bày:

Về hôn nhân: Anh và chị Phạm Thị H kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa ngày 23/3/2017. Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì phát sinh rạn nứt. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên đôi lúc sảy ra cãi cọ, cuộc sống không hạnh phúc. Nay chị H làm đơn xin ly hôn với anh, anh cũng đồng ý ly hôn với chị H.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Hà Nam A (sau đổi họ, tên thành Phạm Quốc T), sinh ngày 14/7/2017. Ly hôn, anh đồng ý để chị H trực tiếp nuôi con, anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H.

Về tài sản và công nợ: Anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:

Về tố tụng: Tòa án đã xác định đúng quan hệ pháp luật và tư cách tố tụng của các đương sự trong vụ án. Từ giai đoạn thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử sơ thẩm, Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án cũng như các thành viên của Hội đồng xét xử (Sau đây viết tắt là HĐXX) và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (Sau đây viết tắt là BLTTDS). Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình còn bị đơn chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định của BLTTDS.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân gia đình; Về hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Hà Văn V; Về con chung: Giao con chung là cháu Hà Nam A (sau đổi họ, tên thành Phạm Quốc T), sinh ngày 14/7/2017 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án Hôn nhân và gia đình có con chưa thành niên và trong quá trình giải quyết vụ án, do các bên đương sự chưa thống nhất được các vấn đề tranh chấp trong vụ án nên Tòa án đã tiến hành xác minh để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp theo khoản 3 Điều 208 BLTTDS và đã thông báo kết quả thu thập tài liệu chứng cứ cho các bên đương sự cũng nhưng VKS được biết.

[2]. Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho các bên đương sự, nhưng anh V xin vắng mặt nên Tòa án đã thông báo kết quả kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ cho anh V theo khoản 3 Điều 210 BLTTDS.

[3]. Anh V đã được triệu tập hợp lệ đến phiên hoà giải hai lần nhưng anh V đều không đến để tham gia hoà giải nên Toà án không tiến hành hoà giải được. Đây là trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLTTDS.

[4]. Tại phiên tòa hôm nay, anh V vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 BLTTDS, Tòa án xét xử vắng mặt anh V.

[5]. Về hôn nhân: Chị Phạm Thị H và anh Hà Văn V kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Thanh Hóa ngày 23/3/2017 và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình, là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xuyên sảy ra cãi cọ, cuộc sống không được hạnh phúc. Chị H và anh V đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay, không còn qua lại, quan tâm gì đến nhau nữa. Việc này cả chị H và anh V đều thừa nhận và cũng đã được các cấp chính quyền xã T xác nhận, đồng thời cũng phù hợp với nội dung Biên bản xác minh tình trạng hôn nhân mà Tòa án đã tiến hành thu thập. Nay cả chị H và anh V đều yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn. HĐXX nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, xử cho chị Phạm Thị H và anh Hà Văn V được ly hôn.

[6]. Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Hà Nam A (Sau đổi họ, tên thành Phạm Quốc T), sinh ngày 14/7/2017. Ly hôn, cả chị H và anh V đều yêu cầu được giao con cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Do đó, nên chấp nhận yêu cầu của chị H và anh V.

[7]. Về tài sản: Chị H và anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết nên miễn xét.

luật.

[8]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.

Về hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị H được ly hôn anh Hà Văn V.

Về con chung: Giao con chung là cháu Hà Nam A (sau đổi họ, tên thành Phạm Quốc T), sinh ngày 14/7/2017 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, anh V không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H.

Anh V có quyền được thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Phạm Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí DSST về việc ly hôn nhưng được trừ vào số tiền đã nộp tạm ứng án phí DSST là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành theo biên lai số AA/2021/0007678 ngày 01/7/2022. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị Phạm Thị H vắng mặt anh Hà Văn V.

Chị H có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, anh V có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

118
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 83/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:83/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về