TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC YÊN, TỈNH YÊN BÁI
BẢN ÁN 83/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 31 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 141/2022/TLST- HNGĐ ngày 31-5-2022 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 71/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 05-8-2022, theo Thông báo về việc mở lại phiên tòa số: 18/2022/TBXX ngày 18-8-2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Trương Thị N, sinh năm 1992
- Bị đơn: Anh Lý Văn Q, sinh năm 1992 Cùng địa chỉ: Thôn 13, xã Đ, huyện L, tỉnh Yên Bái.
Các đương sự đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Trương Thị N trình bày:
Chị và anh Lý Văn Q tự nguyện đăng ký kết hôn ngày 25-8-2014 tại UBND xã Động Quan, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, thường xuyên xảy ra cãi chửi nhau, anh Q thường chơi cờ bạc và đánh chị. Mâu thuân của vợ chồng đã được hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2020 đến nay không còn quan tâm đến nhau. Chị N xác định tình cảm vợ chồng đã hết, anh yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn anh Q.
Về con chung: chị và anh Q có hai con chung là Lý Văn Ng, sinh ngày 01-12-2013 và Lý Minh H, sinh ngày 25-8-2014. Ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con.
Về chia tài sản chung, nợ chung : Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.
- Bị đơn là anh Lý Văn Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng đều vắng mặt và không có ý kiến thể hiện trong hồ sơ vụ án.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng: Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về việc xét xử vụ án. Nguyên đơn đã thực hiện đúng, đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật. Bị đơn được triệu tập hợp lệ nhưng không đến Tòa án để giải quyết vụ án, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.
Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử Căn cứ Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Căn cứ vào Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
+ Về hôn nhân: Chị Trương Thị N được ly hôn anh Lý Văn Q + Về con chung: Giao hai con chung là Lý Văn Ng, sinh ngày 01-12-2013 và Lý Minh H, sinh ngày 25-8-2014 cho chị Trương Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi.
Anh Q không phải cấp dưỡng nuôi con.
+ Về án phí: Nguyên đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Đây là vụ án hôn nhân gia đình về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”. Bị đơn là anh Lý Văn Q có nơi cư trú tại xã Động Quan, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái.
Tại phiên tòa, Chị N vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; anh Q được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.
[2] Về hôn nhân: Chị Trương Thị N và anh Lý Văn Q kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Động Quan, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái ngày 25-8-2014 là hôn nhân hợp pháp. Qua xác minh, cuộc sống hôn nhân của Chị N và anh Q thường xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống, anh Q không chịu làm ăn chăm lo cho cuộc sống gia đình. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hòa giải nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã ly thân từ năm 2020 không còn quan tâm đến nhau. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng giữa Chị N và anh Q đã trầm trọng, đời sống chung không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Nên căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của Chị N, cho Chị N được ly hôn anh Q.
[3] Về con chung: Chị N và anh Q có hai con chung Lý Văn Ng, sinh ngày 01-12-2013 và Lý Minh H, sinh ngày 25-8-2014. Chị N đề nghị được trực trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung.
Hội đồng xét xử xét thấy: Nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung của Chị N là phù hợp với quyền và nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con được quy định trong luật Hôn nhân và gia đình. Hiện hai con đều đang được Chị N nuôi dưỡng, cháu Nghiệp và cháu H đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Do đó, để đảm bảo quyền, lợi ích, nguyện vọng và sự ổn định cuộc sống của các con nên giao hai con là Lý Văn Ng và Lý Minh H cho Chị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi là phù hợp.
Về cấp dưỡng nuôi con: Chị N không yêu cầu anh Q phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét không xem xét.
[4] Về chia tài sản chung, nợ chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Chị N phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
[6] Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
nhận.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên được chấp Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 147, Điều 227, Điều 228; Điều 238, Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;
Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
1. Về hôn nhân: Chị Trương Thị N được ly hôn anh Lý Văn Q.
2. Về con chung: Giao hai con là Lý Văn Ng, sinh ngày 01-12-2013 và Lý Minh H, sinh ngày 25-8-2014 cho chị Trương Thị N trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc khi có sự thay đổi.
Anh Lý Văn Q không phải cấp dưỡng nuôi con.
Anh Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Trương Thị N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí Chị N đã nộp theo biên lai số: AA/2021/0002359 ngày 31-5-2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Chị N đã nộp đủ tiền án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 83/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 83/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Lục Yên - Yên Bái |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 31/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về