Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 82/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THOẠI SƠN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 82/2021/HNGĐ-ST NGÀY 05/07/2021 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 05 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 47/2021/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 02 năm 2021 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 144/2021/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị N.T.T, sinh năm 1988 Địa chỉ: Ấp TS, thị trấn NS, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

* Bị đơn: Anh T.V.TH, sinh năm 1987;

Địa chỉ: Ấp TB, xã TG, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện ngày 17/02/2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị N.T.T trình bày như sau: Chị và anh T.V.TH chung sống với nhau vào năm 2012, có tổ chức đám cưới, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 10/9/2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến cuối năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn và ly thân tới nay. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh TH không quan tâm đến vợ con, đi làm được bao nhiêu thì nhậu nhẹt và ăn chơi, kinh tế khó khăn dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi, không có tiếng nói chung. Nhận thấy, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh TH. Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng chị có 01 con chung tên T.H.A, sinh ngày 17/01/2013, hiện nay đang sống với chị. Nếu được ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh TH phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Chị T có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa khi vụ án được đưa ra xét xử ghi ngày 07/5/2021.

Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã hai lần triệu tập hợp lệ anh TH đến để tiến hành hòa giải nhưng anh TH vắng mặt không có lý do và không có lời khai hay ý kiến nên Tòa án không ghi nhận được quá trình hôn nhân, con cái, tài sản cũng như ý kiến của anh TH đối với yêu cầu khởi kiện của chị T.

* Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt; Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 8, 9, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T được ly hôn anh TH. Về con chung: Giao cháu T.H.A, sinh ngày 17/01/2013 cho chị T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, anh TH không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung: Không xem xét. Chị T yêu cầu ly hôn nên phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, căn cứ vào lời trình bày của nguyên đơn, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Chị N.T.T (là nguyên đơn trong vụ án) có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Anh T.V.TH (là bị đơn trong vụ án) đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên Toà xét xử lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 Toà án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị T và anh TH.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về hôn nhân: Chị T và anh TH kết hôn với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang ngày 10/9/2012 nên được pháp luật công nhận là vợ chồng hợp pháp theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình. Nay vợ chồng chị T và anh TH phát sinh mâu thuẫn, chị T xin ly hôn nên Toà án thụ lý, giải quyết là phù hợp với các quy định của pháp luật.

Trong quá trình hôn nhân, chị T cho rằng do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh TH không quan tâm đến vợ con, đi làm được bao nhiêu thì nhậu nhẹt và ăn chơi, kinh tế khó khăn dẫn đến vợ chồng thường xuyên cự cãi, không có tiếng nói chung. Tòa án đã triệu tập anh TH để tham gia phiên hòa giải nhưng anh TH cố tình vắng mặt và không trình bày ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị T thể hiện anh TH không muốn hàn gắn. Xét thấy, hôn nhân giữa chị T và anh TH thực tế đã không còn tồn tại, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, nghĩ nên chấp nhận yêu cầu của chị T được ly hôn với anh TH.

[2.2] Về con chung:

Chị T xác định trong thời gian chung sống, vợ chồng anh chị có 01 con chung tên T.H.A, sinh ngày 17/01/2013, hiện nay đang sống với chị. Sau ly hôn, chị T yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh TH phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, cháu Anh hiện nay đang sống với chị T, thời gian ly thân cháu Anh được chị T chăm sóc tốt, phát triển bình thường và cháu Anh cũng có nguyện vọng được sống với chị T. Xuất phát từ lợi ích mọi mặt của cháu Anh, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu, giúp cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần, Hội đồng xét xử giao cháu Anh cho chị T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con là nghĩa vụ của người không trực tiếp nuôi con, tuy nhiên chị T không yêu cầu anh TH phải cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được quyền cản trở. Chị T phải tạo điều kiện cho anh TH được thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Chị T không tranh chấp tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này giữa chị T và anh TH có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Lời phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa về nội dung giải quyết vụ án là phù hợp với quy định pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Chị T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng được khấu trừ tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp.

Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Các Điều 8, 9, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ Ban Thường Vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N.T.T.

* Về hôn nhân: Chị N.T.T được ly hôn với anh T.V.TH.

(Giấy chứng nhận kết hôn số 146/2012, quyển số 01/2012 do Ủy ban nhân dân thị trấn Núi Sập, huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang cấp ngày 10/9/2012 cho chị N.T.T và anh T.V.TH không còn giá trị pháp lý kể từ ngày 05/7/2021).

* Về con chung: Giao cháu T.H.A, sinh ngày 17/01/2013 cho chị T được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng.

Anh TH không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị T không có yêu cầu.

Anh TH có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con, Toà án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

* Về tài sản chung và nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nếu sau này giữa chị T và anh TH có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung sẽ được Tòa án thụ lý, giải quyết bằng vụ án khác.

* Về án phí sơ thẩm: Chị N.T.T phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm không có giá ngạch là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), nhưng được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008130 ngày 26 tháng 02 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang.

Anh T.V.TH không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Chị T và anh TH được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

153
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 82/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:82/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thoại Sơn - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 05/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về