Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 76/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VB, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 76/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 28 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 108/2022/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 6 năm 2022 về Ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 81/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 70/2022/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 9 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Đ ; nơi cư trú: Thôn A, xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt (Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Anh Trần Tăng N ; nơi cư trú: Thôn A, xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Lê Thị Đ trình bày: Chị và anh Trần Tăng N kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 21-02-2001 tại Ủy ban nhân dân xã VL, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống, anh chị hòa thuận hạnh phúc thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng không hợp tính nhau, luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống nên đã xảy ra xô sát, bất hòa. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng từ đầu năm 2022 do anh N thường xuyên chửi bới xúc phạm chị gây áp lực về tinh thần đối với chị. Từ đầu năm 2022 đến nay vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau, đối xử với nhau lạnh nhạt. Nay nhận thấy tình nghĩa vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trần Tăng N .

Về con chung: Chị và anh Trần Tăng N có 02 con chung là Trần Minh Q, sinh ngày 11-12-2001 hiện nay đã trưởng thành và Trần Công M, sinh ngày 25-4- 2011. Khi ly hôn, chị đề nghị Tòa án giao con Trần Công M cho chị trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chị xin tự giải quyết với anh N .

Về tài sản chung: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại biên bản ghi lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, anh Trần Tăng N xác nhận về điều kiện hoàn cảnh kết hôn như chị Lê Thị Đ trình bày là đúng. Sau khi kết hôn, anh chị chung sống hòa thuận thuận hạnh phúc thời gian đầu và có hai con chung. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh là do chị Đ có quan hệ với người khác. Từ tháng 3/2022 đến nay vợ chồng anh chị sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau, đối xử với nhau lạnh nhạt. Nay chị Đ xin ly hôn anh không đồng ý.

Về con chung: Anh và chị Lê Thị Đ có 02 con chung Trần Minh Q, sinh ngày 11-12-2001 hiện nay đã trưởng thành và Trần Công M, sinh ngày 25-4-2011. Khi ly hôn, anh đề nghị Tòa án giải quyết về con chung theo nguyện vọng của con, anh không có ý kiến gì.

Về tài sản chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng đồng thời phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án như sau:

Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng; thu thập chứng cứ, việc xét xử vắng nguyên đơn, bị đơn và các hoạt động tố tụng khác. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo đúng quy định của pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ, không tham gia các phiên họp, phiên hòa giải, tại phiên tòa bị đơn vắng mặt không có lý do, tuy nhiên vi phạm của bị đơn không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án.

Về nội dung vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị Đ được ly hôn với anh Trần Tăng N .

Về con chung: Giao con Trần Công M, sinh ngày 25-4-2011 cho chị Lê Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chị Đ xin tự giải quyết với anh N nên không xem xét giải quyết. Về tài sản chung: Chị Đ và anh N không yêu cầu nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị Lê Thị Đ phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về tố tụng:

[1] Anh Trần Tăng N có hộ khẩu thường trú tại Thôn A, xã TL, huyện VB, thành phố Hải Phòng. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án ly hôn giữa chị Lê Thị Đ và anh Trần Tăng N thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện VB, thành phố Hải Phòng.

[2] Tại phiên tòa, chị Lê Thị Đ có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Trần Tăng N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa, tuy nhiên anh N vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Lê Thị Đ và anh Trần Tăng N .

- Về nội dung vụ án:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Đ và anh Trần Tăng N kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã VL, huyện VB, thành phố Hải Phòng vào ngày 21-02-2001, là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, anh chị hoà thuận thời gian đầu và có hai con chung. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do bất đồng quan điểm, tính cách không hòa hợp nên đã xảy ra bất hòa. Nay chị Đ xác định tình nghĩa vợ chồng không còn, mâu thuẫn không thể hàn gắn được, chị đề nghị được ly hôn với anh N . Quá trình giải quyết vụ án, anh N không đồng ý ly hôn với chị Đ . Qua xác minh thì thấy vợ chồng chị Đ và anh N có mâu thuẫn, anh chị đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không quan tâm đến nhau, đối xử với nhau lạnh nhạt. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Yêu cầu của chị Lê Thị Đ xin ly hôn với anh Trần Tăng N phù hợp với khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị Lê Thị Đ và anh Trần Tăng N có hai con chung là Trần Minh Q, sinh ngày 11-12-2001 hiện nay đã trưởng thành và Trần Công M, sinh ngày 25-4-2011. Khi ly hôn, chị Đ đề nghị Tòa án giao con Trần Công M, sinh ngày 25-4-2011 cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, anh N đề nghị Tòa án giải quyết theo nguyện vọng của con chung, anh không có ý kiến gì. Xét yêu cầu đề nghị nuôi con chung của anh chị, Hội đồng xét xử nhận định: Chị Đ có nơi ở và thu nhập ổn định, cháu Trần Công M, sinh ngày 25-4-2011 hiện đang ở với chị Đ được chị chăm sóc nuôi dưỡng và có nguyện vọng xin được ở với mẹ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chung, cần chấp nhận yêu cầu của chị Đ , giao con Trần Công M, sinh ngày 25-4-2011 cho chị Đ trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với Điều 81 của Luật Hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chị Đ xin tự giải quyết với anh N nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị Lê Thị Đ và anh Trần Tăng N không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Chị Lê Thị Đ phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; căn cứ khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Lê Thị Đ được ly hôn với anh Trần Tăng N .

2. Về con chung: Giao con chung Trần Công M, sinh ngày 25-4-2011 cho chị Lê Thị Đ trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chị Lê Thị Đ tự giải quyết với anh Trần Tăng N nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung: Chị Lê Thị Đ và anh Trần Tăng N không yêu cầu nên Tòa án không xem xét giải quyết.

4. Về án phí: Chị Lê Thị Đ phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Đ đã nộp tạm ứng 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện VB theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0002306 ngày 29 tháng 6 năm 2022. Chị Lê Thị Đ đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các đương sự có quyền kháng cáo lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 76/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:76/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về