Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 75/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 75/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 56/2022/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 02 năm 2022, về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2022/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ka’ S, sinh năm 1984 Địa chỉ: Tổ x, Ấp PC, xã PB, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Anh K KH, sinh năm 1984 Địa chỉ: Tổ x, Ấp PC, xã PB, huyện TP, tỉnh Đồng Nai.

(Nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; bị đơn vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình thụ lý và giải quyết vụ án, nguyên đơn Chị Ka’ S trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị S và anh KH kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn số 77, quyển số:01/2005 vào ngày 04-01-2006 tại UBND xã PB, huyện TP, tỉnh Đồng Nai và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo luật định. Anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng 8 năm thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm, anh KH ham chơi không lo cho gia đình nên có xảy ra cãi nhau. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2018 đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Chị nhận thấy tình cảm không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh K’ Kh.

- Về nuôi con: Anh chị có 03 (Ba) con chung là K’ K1 sinh ngày 27/12/2006, K’ K2 sinh ngày 20/10/2008 và Ka’ Mỹ T sinh ngày 11/7/2011. Hiện nay các con chung đang ở cùng với chị, chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng các con và không yêu cầu anh KH cấp dưỡng, đồng thời chị đang làm công nhân với mức lương khoảng hơn 7.000.000 đồng nên theo chị là có đủ điều kiện nuôi các con.

- Về tài sản chung: Chị S trình bày tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Nợ chung: Chị S trình bày không có nợ chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn anh KH không đến Tòa án tham gia tố tụng, do vắng mặt tại địa phương nên Tòa án không thu thập được lời khai của bị đơn cũng như không có yêu cầu phản tố. Tòa án đã tiến hành sao gửi các tài liệu chứng cứ nguyên đơn giao nộp cho bị đơn và thông báo về việc thu thập được tài liệu chứng cứ cho các đương sự. Đồng thời đương sự không thay đổi, bổ sung ý kiến; không giao nộp, bổ sung thêm tài liệu chứng cứ nào khác, không yêu cầu triệu tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác.

Phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Nguyên đơn có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị S. Về hôn nhân: Cho Chị Ka’ S được ly hôn với anh K’ Kh. Về con chung: Giao cho Chị S trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung K’ K1, K’ K2 và Ka’ Mỹ T, tạm thời anh KH không phải cấp dưỡng cho con. Đề nghị về tài sản chung, nợ chung sẽ được giải quyết bằng vụ án khác khi có tranh chấp. Về án phí: Chị S phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa.

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1]. Xác định thẩm quyền giải quyết và quan hệ pháp luật: Anh K’ Kh có nơi cư trú tại xã PB, huyện TP, tỉnh Đồng Nai. Vì vậy, căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự xác định vụ án thuộc thẩm quyền thụ lý, giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tân Phú. Chị S yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con, vì vậy cần xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo quy định tại khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[1.2]. Xác định tư cách đương sự: Ngày 16/02/2022, Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện về việc Chị S xin ly hôn với anh KH. Căn cứ theo khoản 2, khoản 3 Điều 68 Bộ luật tố tụng dân sự xác định chị là nguyên đơn, anh KH là bị đơn trong vụ án.

[1.3]. Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn Chị S vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; Bị đơn anh KH đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

- Về hôn nhân: Hôn nhân giữa Chị S và anh KH được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn số 77, quyển số: 01 ngày 04/01/2006 tại Ủy ban nhân dân xã PB, huyện TP, tỉnh Đồng Nai và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo luật định. Như vậy, hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Tại các biên bản xác minh ngày 12/5/2022 thể hiện do tính tình không hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi nhau. Anh KH đi làm xa, do xa mặt cách lòng 01 thời gian dài nên mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Hai người không còn chung sống từ năm 2018 đến nay. Tòa án đã niêm yết hợp lệ các văn bản tố tụng tại nơi cư trú nhưng anh KH không đến Tòa án, thể hiện thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến Chị S, không có thiện chí hàn gắn đoàn tụ gia đình. Kết quả xác minh thu thập chứng cứ như trên về mâu thuẫn vợ chồng, phù hợp với lời khai của nguyên đơn. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định, Chị S và anh KH đã không còn tình cảm thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; vi phạm nghĩa vụ sống chung của vợ chồng được quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn có cơ sở để chấp nhận.

- Về nuôi con chung: Đối với 03 con chung K’ K1 sinh ngày 27/12/2006, K’ K2 sinh ngày 20/10/2008 và Ka’ Mỹ T sinh ngày 11/7/2011 từ khi không còn sống chung thì Chị S là người trực tiếp nuôi dưỡng, đồng thời con chung có nguyện vọng mong muốn được ở với chị. Bên cạnh đó chị làm công nhân có thu nhập ổn định với mức lương là 7.000.000đ/tháng, đủ điều kiện nuôi con. Để bảo đảm cuộc sống ổn định cho các con chung nên tiếp tục giao 03 con chung K1, K2 và T cho Chị S được nuôi dưỡng là có cơ sở. Căn cứ Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và Gia đình, do Chị S không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên tạm thời miễn cho anh KH nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Chị S trình bày tài sản chung tự thỏa thuận và không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Anh KH không có văn bản trình bày ý kiến về tài sản chung, nợ chung. Vì vậy, khi có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

[3] Về án phí: Chị S phải chịu 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về ly hôn.

[4] Xét quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, Điều 235, Điều 238 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Điều 11, Điều 18, Điều 85, Điều 89, Điều 91, Điều 92, Điều 93, Điều 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 và Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về yêu cầu khởi kiện: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Chị Ka’ S.

- Về hôn nhân: Chị Ka’ S được ly hôn với anh K’ Kh.

- Về nuôi con chung: Giao cho Chị Ka’ S trực tiếp nuôi dưỡng, trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung K’ K1 sinh ngày 27/12/2006, K’ K2 sinh ngày 20/10/2008 và Ka’ Mỹ T sinh ngày 11/7/2011. Tạm thời miễn cho anh KH nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Anh KH có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chung, các đương sự có quyền thay đổi việc nuôi con và cấp dưỡng cho con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Khi có tranh chấp sẽ được giải quyết bằng vụ án khác.

2. Về án phí: Chị Ka’ S phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Số tiền 300.000đ Chị S đã nộp tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0002304 ngày 16/02/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú, tỉnh Đồng Nai được chuyển thành án phí.

3. Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự năm 2008 (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).

4. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

84
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 75/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:75/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về