TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG ĐIỀN, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
BẢN ÁN 75/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 15 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 125/2022/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 5 năm 2022 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 83/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 7 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 52/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Trần Thị Minh H, sinh năm 1985 (có mặt) Địa chỉ: 47 khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Trung H1, sinh năm 1983 (vắng mặt) Địa chỉ: 47 khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/4/2022 và trong quá trình tố tụng tại Tòa, nguyên đơn bà Trần Thị Minh H trình bày:
Về hôn nhân: Bà H và ông H1 chung sống và tổ chức lễ cưới năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 29, quyển số I/2008 ngày 29/02/2008, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại 47, khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, tuy nhiên qua thời gian đã phát sinh mâu thuẫn, rạn nứt về tình cảm. Nguyên nhân từ những vấn đề liên quan đến tình cảm, kinh tế, tài chính lo cho cuộc sống gia đình mà hai bên không có sự chia sẻ, đồng cảm với nhau, cả hai không thể giải quyết được mâu thuẫn dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Mặc dù đã được gia đình hai bên khuyên răn, hàn gắn nhưng vợ chồng không còn tình cảm yêu thương như trước nên không thể tiếp tục sống chung. Nên hai vợ chồng đã ly thân từ tháng 3/2022 cho đến nay.
Nay nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông H1.
Về nuôi con chung: Bà H xác nhận bà và ông H1 có 03 con chung tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/6/2008; Nguyễn Đăng K1, sinh ngày 11/9/2011 và Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 25/10/2013. Bà H yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 03 con chung và không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Đối với bị đơn ông Nguyễn Trung H1:
Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng ông H1 không đến Tòa án tham gia giải quyết. Tòa án cũng không nhận được văn bản ý kiến hay bản tự khai của ông H1.
Tại phiên tòa:
Bà H vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, không bổ sung gì thêm. Ông H1 đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Các đương sự không thỏa thuận được về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Quá trình thụ lý, giải quyết và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn bà H đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn ông H1 vắng mặt trong quá trình tố tụng là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Bà Trần Thị Minh H yêu cầu ly hôn, giải quyết con chung với ông Nguyễn Trung H1 nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; bị đơn ông H1 có địa chỉ cư trú tại huyện L nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[1.2] Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa, ông H1 đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông H1 theo quy định tại khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hôn nhân: Về hôn nhân: Bà H và ông H1 chung sống và tổ chức lễ cưới năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu theo Giấy chứng nhận kết hôn số 29, quyển số I/2008 ngày 29/02/2008, hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, không bị ai ép buộc. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại 47, khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.
Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, tuy nhiên qua thời gian đã phát sinh mâu thuẫn, rạn nứt về tình cảm. Nguyên nhân từ những vấn đề liên quan đến tình cảm, kinh tế, tài chính lo cho cuộc sống gia đình mà hai bên không có sự chia sẻ, đồng cảm với nhau, cả hai không thể giải quyết được mâu thuẫn dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Mặc dù đã được gia đình hai bên khuyên răn, hàn gắn nhưng vợ chồng không còn tình cảm yêu thương như trước nên không thể tiếp tục sống chung. Hai vợ chồng đã ly thân từ tháng 3/2022 cho đến nay. Tại Tòa bà H xác định không còn tình cảm với ông H1 nên yêu cầu được ly hôn.
Kết quả xác minh cho thấy: Bà H và ông H1 kết hôn năm 2008 và chung sống với nhau tại 47, khu phố L, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn nên hai vợ chồng đã ly thân từ tháng 3/2022 cho đến nay, ông H1 về nhà mẹ đẻ sống.
Quá trình tố tụng cũng như tại phiên tòa, ông H1 đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng, nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Điều đó cho thấy bản thân ông H1 không có thiện chí hàn gắn tình cảm vợ chồng, bỏ mặc đời sống hôn nhân.
Từ những tài liệu, chứng cứ nguyên đơn cung cấp; thực tế xác minh tại địa phương cho thấy mâu thuẫn giữa bà H và ông H1 là có thật, theo chiều hướng kéo dài và trầm trọng, ông bà đã thực sự không còn tình cảm với nhau, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, căn cứ vào vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà H đối với ông H1.
[2.2] Về nuôi con chung: Bà H và ông H1 có 03 con chung tên Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/6/2008; Nguyễn Đăng K1, sinh ngày 11/9/2011 và Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 25/10/2013. Bà H yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc 03 con chung và không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy: Từ khi hai vợ chồng ly thân cho đến nay, các cháu vẫn ở với mẹ, được mẹ chăm sóc, nuôi dưỡng; các cháu có nguyện vọng được ở với mẹ. Để tránh xáo trộn trong sinh hoạt, tâm lý, học tập của cháu. Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của bà H giao cháu Nguyễn Đăng K, Nguyễn Đăng K1, Nguyễn Thị Thu T cho bà H trực tiếp nuôi dưỡng. Bà H không yêu cầu ông H1 cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[2.3] Về chia tài sản chung, nợ chung: Bà H không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3] Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện L, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu là phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí: Bà H là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.
[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 271, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 144, Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho bà Trần Thị Minh H ly hôn ông Nguyễn Trung H1.
2. Về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Đăng K, sinh ngày 20/6/2008; Nguyễn Đăng K1, sinh ngày 11/9/2011 và Nguyễn Thị Thu T, sinh ngày 25/10/2013 cho bà Trần Thị Minh H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Bà H không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ đối với con chung. Người không trực tiếp nuôi dưỡng con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không được ai cản trở.
Vì lợi ích của con, khi có yêu cầu của cha hoặc mẹ hoặc của cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu Tòa án giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con.
3. Về chia tài sản chung, nợ chung: Không xem xét, giải quyết.
4. Về án phí: Bà H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí sơ thẩm bà H đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008856, ngày 13 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Bà H đã nộp đủ án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 75/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 75/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Long Điền - Bà Rịa - Vũng Tàu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về