TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 72/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/09/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 30 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 128/2022/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2022 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 143/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 96/2022/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2022, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Đặng Thị Y, sinh ngày 04 tháng 4 năm 1994 (có mặt);
2. Bị đơn: Anh Nguyễn Xuân K, sinh năm 1995 (vắng mặt);
Cùng địa chỉ: ấp RL, xã TA, huyện AB, tỉnh Kiên Giang.
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Trong đơn khởi kiện ngày 29 tháng 6 năm 2021 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Đặng Thị Y trình bày và yêu cầu như sau:
Chị và anh Nguyễn Xuân K chung sống với nhau vào năm 2015, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Tây Yên A cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 15/02/2016. Chị và anh Nguyễn Xuân K có 01 người con chung tên: Nguyễn Xuân Tr, sinh ngày 17/7/2016, hiện nay đang chung sống với chị; về tài sản chung, chị và anh Nguyễn Xuân K không có và không tranh chấp; về nợ, chị và anh Nguyễn Xuân K không có nợ người khác, người khác không nợ anh chị. Quá trình chung sống chị và anh Nguyễn Xuân K sống không hòa hợp, tình cảm rạng nứt, thường xuyên cự cãi, hôn nhân không hạnh phúc nên chị bỏ đi sống ly thân với anh Nguyễn Xuân K từ tháng 6 năm 2021 cho đến nay. Chị thấy, chị và anh Nguyễn Xuân K không còn tình cảm vợ chồng nên chị yêu cầu giải quyết như sau: Về quan hệ hôn nhận, chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Xuân K. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung tên: Nguyễn Xuân Tr, sinh ngày 17/7/2016, chị không yêu cầu anh Nguyễn Xuân K cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, chị không yêu cầu giải quyết.
* Tại các Biên bản xác minh ngày 08 tháng 8 năm 2022 như sau:
Anh Nguyễn Xuân K và chị Đặng Thị Y chung sống với nhau tại ấp RL, xã TA, huyện AB, tỉnh Kiên Giang hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh Nguyễn Xuân K nghi ngờ chị Đặng Thị Y có mối quan hệ tình cảm với người đàn ông khác, chị Đặng Thị Y không lo làm ăn phát triển kinh tế gia đình, vợ chồng hay cự cãi và sống ly thân với nhau, khi anh chị ly thân chị Đặng Thị Y nuôi dưỡng con chung.
* Bị đơn anh Nguyễn Xuân K: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ cho anh Nguyễn Xuân K nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì đối với yêu cầu khởi kiện ly hôn và nuôi con của chị Đặng Thị Y nên Toà án tiến hành giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
* Tài liệu, chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án gồm: Giấy chứng minh nhân dân tên Đặng Thị Y và sổ hộ khẩu; Trích lục kết hôn Đặng Thị Y và Nguyễn Xuân K; Giấy khai sinh Nguyễn Xuân Tr, sinh ngày 17/7/2016; Đơn xin xác nhận ngày 22/6/2021 của chị Đặng Thị Y; Biên bản xác minh ngày 08 tháng 8 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang.
* Tại phiên tòa:
Nguyên đơn chị Đặng Thị Y yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Xuân K. Về quan hệ con chung, khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng người con chung tên: Nguyễn Xuân Tr, sinh ngày 17/7/2016, chị không yêu cầu anh Nguyễn Xuân K cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ, chị Đặng Thị Y xác định chị và anh Nguyễn Xuân K không có tài sản chung và chị Đặng Thị Y cam kết là không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị nên chị không yêu cầu giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Xuân K vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do.
Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm:
- Về thủ tục tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký Tòa án thực hiện các thủ tục tố tụng từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử, xác định mối quan hệ pháp luật, đưa tư cách đương sự tham gia tố tụng, về thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh, tống đạt các văn bản tố tụng và chuyển hồ sơ vụ án cho Viện Kiểm sát đúng trình tự thủ tục và thời gian quy định tại khoản 1 Điều 35, Điều 48, Điều 51, Điều 68, các Điều 208, 209, 210, 211, 239 và Điều 247 của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do, đề nghị xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: Xét đơn khởi kiện của chị Đặng Thị Y yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Xuân K và được nuôi dưỡng con chung là có căn cứ chấp nhận nên đề nghị Hội đồng xét xử cho chị Đặng Thị Y được ly hôn với anh Nguyễn Xuân K. Về quan hệ con chung, khi ly hôn giao người con chung của anh chị cho chị Đặng Thị Y tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con, chị Đặng Thị Y không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ, chị Đặng Thị Y tự xác định và cam kết không có tài sản chung, không tranh chấp và không có nợ, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn chị Đặng Thị Y yêu cầu được ly hôn với bị đơn anh Nguyễn Xuân K. Nguyên đơn và bị đơn đều nơi cư trú tại ấp RL, xã TA, huyện AB, tỉnh Kiên Giang nên xác định đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Xuân K biết và ấn định thời gian để anh có ý kiến về việc chị Đặng Thị Y khởi kiện ly hôn và nuôi con đối với anh nhưng anh không có ý kiến gì và cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ gì để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Toà án tổ chức và thông báo cho các bên đương sự để tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng anh Nguyễn Xuân K vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Như vậy, đây là thuộc trường hợp không tiến hành hoà giải được theo quy định tại Điều 207 của Bộ luật tố tụng dân sự nên Toà án quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung và tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa cho anh Nguyễn Xuân K nhưng anh vẫn cố tình vắng mặt đến lần thứ hai không có lý do. Đồng thời, tại phiên toà lần thứ hai chị Đặng Thị Y không yêu cầu hoãn phiên toà. Vì vậy, Toà án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh Nguyễn Xuân K theo quy định tại khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238 và Điều 241 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3] Về nội dung: Xét về quan hệ hôn nhân, chị Đặng Thị Y và anh Nguyễn Xuân K chung sống với nhau vào năm 2015 và có đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ủy ban nhân dân xã TA, AB, Kiên Giang là nơi cư trú của anh chị), được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 09/2016 ngày 15 tháng 02 năm 2016, anh chị đảm bảo các điều kiện kết hôn khác theo quy định của pháp luật là quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận theo quy định tại Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình.
Xét khởi kiện của chị Đặng Thị Y yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Xuân K, thời gian chị và anh Nguyễn Xuân K sống không hòa hợp, tình cảm rạng nứt, thường xuyên cự cãi, hôn nhân không hạnh phúc nên chị bỏ đi sống ly thân với anh Nguyễn Xuân K từ tháng 6 năm 2021 cho đến nay, chị thấy chị và anh Nguyễn Xuân K không còn tình cảm vợ chồng, chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Xuân K nhưng anh Nguyễn Xuân K không có ý kiến yêu cầu gì, không quan tâm đến việc chị Đặng Thị Y yêu cầu ly hôn với anh là vi phạm nghĩa vụ giữa vợ chồng thời gian dài, vợ chồng không chăm sóc, lo lắng lẫn nhau mà anh chị không có biện pháp hàn gắn để chung sống với nhau nên hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay chị Đặng Thị Y cương quyết yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Xuân K. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị Kiểm sát viên và yêu cầu khởi kiện của chị Đặng Thị Y, cho chị Đặng Thị Y được ly hôn với anh Nguyễn Xuân K là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về quan hệ con chung, chị Đặng Thị Y và anh Nguyễn Xuân K có 01 người con chung tên: Nguyễn Xuân Tr, sinh ngày 17/7/2016 hiện nay đang chung sống với chị Đặng Thị Y. Khi ly hôn chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung nhưng anh Nguyễn Xuân K không có ý kiến gì, con chung của anh chị từ khi anh chị ly thân đến nay sống chung với chị Đặng Thị Y đã thích nghi với cuộc sống hiện tại. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên, yêu cầu của chị Đặng Thị Y, giao người con chung của anh chị cho chị Đặng Thị Y tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được là phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 81 của Luật hôn nhân và gia đình.
Về cấp dưỡng nuôi con, chị Đặng Thị Y không yêu cầu anh Nguyễn Xuân K cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
Về tài sản chung và nợ, chị Đặng Thị Y tự xác định, anh chị không có tranh chấp, không yêu cầu giải quyết và chị Đặng Thị Y cam kết chị và anh Nguyễn Xuân K không có nợ người khác, người khác không có nợ anh chị, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.
[4] Về án phí, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu nhưng được trừ vào số tiền đã tạm ứng án phí theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 207, khoản 2 Điều 227, điểm b khoản 1 Điều 238, Điều 241, Điều 266 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ vào Điều 9, khoản 1 Điều 51, Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 của Luật hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đặng Thị Y được ly hôn với anh Nguyễn Xuân K.
2. Về quan hệ con chung: Giao người con chung của anh chị tên Nguyễn Xuân Tr, sinh ngày 17/7/2016 cho chị Đặng Thị Y tiếp tục nuôi dưỡng đến tròn 18 tuổi tự lao động sinh sống được và hiện nay đang chung sống với chị Đặng Thị Y.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.
3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Đặng Thị Y không yêu cầu anh Nguyễn Xuân K cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét.
4. Về tài sản chung và nợ: Chị Đặng Thị Y tự xác định, chị và anh Nguyễn Xuân K không có tài sản chung và chị Đặng Thị Y cam kết không có nợ người khác và người khác không có nợ anh chị, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Nếu sau này có phát sinh chia tài sản chung và nợ thì được xem xét giải quyết bằng vụ kiện khác.
5. Về án phí: Buộc chị Đặng Thị Y phải chịu án phí dân sự sơ thẩm ly hôn là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu số 0004876 ngày 08 tháng 7 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Chị Đặng Thị Y đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.
6. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án 30/9/2022. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 72/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 72/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Biên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 30/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về