Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 72/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỎ CÀY BẮC, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 72/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/07/2022 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 237/2021/TLST- HNGĐ, ngày 22 tháng 11 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2022/QĐXXST- HNGĐ, ngày 09 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng N, sinh năm 1995 (xin vắng mặt). Địa chỉ nơi cư trú: ấp M, xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1992 (vắng mặt không lý do). Địa chỉ nơi cư trú: ấp M, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn đề ngày 18 tháng 11 năm 2022 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng N trình bày: Chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre vào ngày 02 tháng 12 năm 2016, sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau đến tháng 7 năm 2020 thì ly thân do tính tình không hợp nhau và không còn yêu thương nhau nữa. Nay chị yêu cầu ly hôn với anh T. Con chung có 01 cháu tên Nguyễn Ngọc Thiên Â, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2017 hiện nay đang sống chung với anh T, khi ly hôn chị để anh T tiếp tục nuôi con, chị không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có.

Bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, không có ý kiến đối với yêu cầu của chị Nguyễn Thị Hồng N.

Tại phiên tòa ông Kiểm sát viên phát biểu quan điểm: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, bị đơn chưa chấp hành đúng pháp luật, vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng N đối với anh Nguyễn Văn T; về con chung anh T trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Ngọc Thiên Â, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2017, chị N không phải cấp dưỡng nuôi con; tài sản chung và nợ chung không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Căn cứ vào yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và nội dung vụ án, Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân; bị đơn anh Nguyễn Văn T có nơi cư trú tại ấp M, xã P, huyện M, tỉnh Bến Tre nên căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng N có yêu cầu xin xét xử vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không lý do nên căn cứ vào Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành phiên tòa xét xử vắng mặt chị N, anh T.

[2] Về quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hồng N và anh Nguyễn Văn T, Hội đồng xét xử thấy rằng anh chị kết hôn trên tinh thần tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh Bến Tre vào ngày 02 tháng 12 năm 2016, việc kết hôn tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình nên hôn nhân của anh chị là hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau khi kết hôn anh chị sống chung trong khoảng thời gian ngắn thì sống ly thân, nguyên nhân mâu thuẫn theo như chị N trình bày là do tính tình không hợp nhau, vợ chồng không còn thương yêu nhau nữa. Thấy rằng hôn nhân của chị N và anh T chỉ tồn tại trong thời gian ngắn đã phát sinh mâu thuẫn dẫn đến anh chị sống ly thân, thời gian ly thân anh chị không có giải pháp nào để hàn gắn tình cảm, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thông báo cho chị N và anh T tham gia phiên hòa giải nhằm tạo điều kiện cho anh chị đoàn tụ nhưng anh T không đến Tòa án, điều đó chứng tỏ rằng anh T có ý thức bỏ mặc, không muốn hàn gắn tình cảm với chị N nên có căn cứ để xác định mâu thuẫn tình cảm của anh chị đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N đối với anh T.

[3] Về con chung: Trong quá trình hôn nhân, chị N và anh T có 01 con chung tên Nguyễn Ngọc Thiên Â, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2017 hiện nay đang sống chung với anh T, khi ly hôn chị N yêu cầu để anh T tiếp tục nuôi con và chị không cấp dưỡng nuôi con, đối với anh T không có yêu cầu gì về con chung. Hội đồng xét xử thấy rằng hiện tại cháu  đang sống chung với anh T nên để bảo đảm ổn định cho cuộc sống của cháu thiết nghĩ để cho anh T tiếp tục nuôi con là phù hợp. Do anh T không có yêu cầu chị N phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đối với chị N.

[4] Về chia tài sản khi ly hôn: Chị N trình bày chị và anh T không có tài sản chung và nợ chung, đối với anh T không có yêu cầu giải quyết về tài sản chung và nợ chung. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết, nếu sau này có tranh chấp thì những người có quyền, lợi ích liên quan có quyền yêu cầu giải quyết theo quy định của pháp luật.

[5] Về nghĩa vụ nộp án phí: Chị N phải nộp án phí ly hôn theo quy định tại Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[6] Xét về quan điểm giải quyết vụ án của ông Kiểm sát viên trình bày tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Tuyên xử:

[1] Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Hồng N. Chị Nguyễn Thị Hồng N được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

[2] Về con chung: Anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi cháu Nguyễn Ngọc Thiên Â, sinh ngày 04 tháng 9 năm 2017 hiện nay đang sống chung với anh T; chị Nguyễn Thị Hồng N không phải cấp dưỡng nuôi con do anh T không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ là người không trực tiếp nuôi con có quyền trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

[3] Về chia tài sản khi ly hôn: Không xem xét giải quyết.

[4] Về nghĩa vụ nộp án phí: Án phí ly hôn chị Nguyễn Thị Hồng N phải nộp 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 000xxxx, ngày 22 tháng 11 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Bến Tre nên không phải nộp thêm.

[5] Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

[6] Về việc thi hành bản án khi có hiệu lực pháp luật: Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về ly hôn, tranh chấp nuôi con số 72/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:72/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỏ Cày Bắc - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về